Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [ Trang Chủ ]


 

Phật Giáo tại Na Uy

Thích Nguyên Tạng


 

Na Uy ( Norway), một quốc gia nằm ở mạn Bắc châu Âu; thủ đô Oslo, diện tích 324.220 km2 , dân số 4.21.000 người với ngôn ngữ chính là Na Uy ngữ.

Hầu hết tín đồ Phật giáo tại đây đều là người Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Thái Lan, Tây Tạng, Campuchia, Nhật Bản... và cũng có một số ít khác là người bản xứ, những người đã quan tâm đến tôn giáo đầy thu hút này và con số đang gia tăng một cách chậm chạp trong hai thập niên qua. Thật khó mà biết được tổng số tín đồ Phật giáo ở Na Uy là bao nhiêu, bởi vì có nhiều chủng tộc khác nhau, lại thành lập những tổ chức riêng biệt. Về phần người Na Uy có một số thành lập hội và một số khác thì gia nhập vào các nhóm đặc biệt, chính yếu là ở tại thủ đô Oslo. Do chưa có sự thống nhất về mặt tổ chức, nên người Phật tử ở đây học tập, nghiên cứu và thực hành giáo lý đạo Phật theo cách nhìn của riêng họ. Tuy nhiên tại Oslo, có Hội Phật giáo Theravada, các nhóm khác thuộc Ðại Thừa Phật giáo Tây Tạng. Vì thế, có thể phỏng đoán tổng số tín đồ Phật giáo ở Na Uy có lẽ xấp xỉ trên dưới 10.000 người.

Ca Tô giáo và Tin Lành giáo là hai tôn giáo chính ở Na Uy. Ky Tô giáo đã thống trị ở đất nước này từ chín trăm năm qua, tức là từ năm 1030, sau khi chấm dứt của triều đại Viking và chấm dứt tín ngưỡng Ða thần (Polytheism). Một tôn giáo lớn khác ở Na Uy là Hồi giáo, với số lượng khoảng 100.000 tín đồ. Phần lớn họ đều là người đến từ các nước ở Bắc Phi. Số người này đến Na Uy vào thập niên bảy mươi như là những công dân ngoại quốc và sau đó họ xin định cư luôn.

Người đầu tiên có công đưa Phật giáo vào Na Uy là một nhà truyền giáo Ky Tô, giáo sĩ Karl Ludvig Reichelt (1877-1952), một trong số nhiều tu sĩ Ky Tô giáo được đưa đến làm việc ở Ðông Nam Á. Trong lớp người của ông, nhiều người đã chống đối lại Lão giáo, Phật giáo... nhưng một số khác lại quan tâm đến các tín ngưỡng này vì sự bao dung và tính phóng khoáng của nó. Ðặc biệt trong số những người này phải kể đến giáo sĩ Karl L. Reichelt.

Karl L. Reichelt được giáo dục để trở thành một thầy giáo dạy tiểu học. Sau đó ông học một trường truyền giáo ở Stavanger, khi tốt nghiệp, ông được cử đến truyền giáo ở Ninsiang, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc vào năm 1902. Ông ở lại nơi đó được tám năm thì được đưa đi học ở Leipzeg, Ðức quốc, trước khi trở lại Trung Quốc như là một giáo viên dạy ở một trường đạo gần Hán Khẩu. Trong thời gian ở Na Uy giữa năm 1920 đến năm 1922, ông đã đưa ra một số dự án về công việc truyền giáo cho một số Tăng sĩ người Hoa. Mối quan hệ chính của ông là dựa vào sự công nhận của công chúng về giá trị tôn giáo được tìm thấy trong đạo Phật, và ông cũng muốn thống nhất những giá trị này cùng với lễ nghi và các quan điểm tương tự đối với người Hoa. Nhưng ông không thành công, vì các Tăng sĩ người Hoa vẫn truyền giáo theo cách của riêng họ. Do vậy, Reichelt đã thành lập một Trung tâm truyền đạo dựa trên nguyên tắc của ông vào năm 1922, nhưng đến năm 1929 thì Trung tâm này mới được hoàn thành với danh xưng là Ðạo Phong Sơn, tọa lạc gần ở Hồng Kông.

Ngài Reichelt đã sống nhiều năm ở Trung Hoa, ông nói và viết rất thông thạo ngôn ngữ của xứ sở này. Trong thời gian lưu trú nơi đây, ông đã viết nhiều sách bằng tiếng Trung Quốc về đời sống tu hành của người phương Ðông. Các tác phẩm được quần chúng chú ý nhất là "Tôn giáo của Trung Hoa" (The Religions of China) xuất bản năm 1913 ; "Ðời sống Tôn giáo ở phương Ðông" (From the Religious life of the East) xuất bản năm 1922 ; "Tịnh Ðộ" (The Pure Land) xuất bản năm 1928 ; "Hướng về biên giới Tây Tạng" (Toward the Borders of Tibet) xuất bản năm 1933 ; "Lòng Hiếu thảo và Thánh thiện ở Ðông Nam Á" (Piety and Holiness in Eastern Asia) xuất bản năm 1947. Tất cả tác phẩm của ông đều được phiên dịch sang tiếng Na Uy, tiếng Anh và tiếng Ðức. Ðến năm 1949, một cuốn sách của ông viết về Lão tử bao gồm cả bản dịch quyển Ðạo Ðức Kinh được ấn hành. Trong phần giới thiệu quyển sách này, một giáo sư người Na Uy, ông Henry Henne viết: "Reichelt là một nhà truyền giáo, nhưng ông là một người có tư tưởng phóng khoáng. Trong thời của ông, các đồng nghiệp đã chê bai và xem thường những truyền thống văn hóa và tôn giáo ở Trung Quốc, nhưng chính ông là người thích thú và khâm phục con người, đất nước và ngôn ngữ của họ (...), sự nghiên cứu lễ nghi và kinh điển của các tôn giáo phương Ðông đã chiếm mất nhiều thời giờ của ông. Nhưng qua việc nghiên cứu này đã giúp ông có được sự hiểu biết sâu sắc về giáo điển và đời sống tu hành của người phương Ðông (...). Chính nhờ sự hiểu biết sâu sắc đại được từ trong Phật giáo đã giúp ông nhìn thấy được giá trị tôn giáo và triết lý mạnh mẽ bên trong tôn giáo này".

Vào năm 1947, một người họ hàng của giáo sĩ Reichelt là Gerhard M. Reichelt đã phiên dịch và viết lời giới thiệu một cuốn sách của ông viết về Lục Tổ Huệ Năng và bản dịch kinh Pháp Bảo Ðàn. Cùng với sách Thiền của ngài D. T. Suzuki, các tác phẩm của giáo sĩ Reichelt đã đóng góp rất nhiều trong phong trào học và tu Thiền đối với người dân ở vùng Bắc Âu và bán đảo Scandinavia.

Một số người Scandinavian khác có công phiên dịch và truyền bá kinh điển Phật giáo, phải được kể đến là ông Poul Tuxen, một học giả người Ðan Mạch, đã chuyển ngữ và bình giải nhiều bộ kinh Phật giáo. Một bản dịch mới nhất là Kinh Pháp Cú (Dhammapala) vừa được ấn hành tại Ðan Mạch. Một học giả khác là ông Chr. Lindt, một người đã phiên dịch nhiều tác phẩm của ngài Long Thọ (Nagarjunas), như Bảo Hạnh Vương Chánh Luận (Ratnavali); Lục Thập Tụng Như Lý Luận (Yuktisastika); Vô Thí Tán (Niraupamyastava); Chân Ðế Tán (Paramarthastava)... việc làm này đã giúp cho giáo điển đạo Phật được tìm thấy trong ngôn ngữ của người Bắc Âu (gồm người Na Uy, Ðan Mạch, Thụy Ðiển và Aixolen), vì hầu hết dân chúng ở Bắc Âu đều nói và đọc tiếng Anh rất tốt, nên kinh sách Phật giáo được tìm đọc qua các bản dịch này. Có thể nói, tiếng Anh đang được khẳng định là một ngôn ngữ của Phật giáo ở phương Tây.

Về kiến thức Phật học ở Na Uy ngày nay thì có phần phấn khởi vì giáo lý căn bản của Phật giáo được đưa vào dạy ở hệ thống giáo dục trung học. Một số bài giới thiệu về lịch sử và giáo lý Phật giáo được phát hành trong giáo trình học cùng với các Tôn giáo khác như Ky Tô giáo, Hồi giáo, Lão giáo, Do Thái giáo, Ấn Ðộ giáo, Thần đạo... như là một giáo viên của môn học này trong nhiều năm, tôi đã để ý đến hai thái độ khác nhau về Phật giáo trong số những học trò của tôi. Một nhóm thì cho là quá trừu tượng, quá bi quan và hơi kỳ cục, trong khi một nhóm khác thì say mê và thích thú về lãnh vực triết học của Phật giáo. Gần đây tôi có gặp lại một số học trò cũ sau nhiều năm và rất mừng khi biết họ đang nghiên cứu Ðạo Phật, một số khác thì chọn hẳn môn này để học ở trường đại học. Ở Na Uy, hiện có bốn trường đại học có phân khoa Tôn giáo học và sau một khóa căn bản về các tôn giáo thế giới, sinh viên có thể tự chọn một tôn giáo mà họ cảm thấy thích và phù hợp với mình để học.

Về tình hình Phật giáo Việt Nam tại Na Uy, hiện nay được biết có khoảng 10.000 người định tại đất nước này, có một ngôi Chùa và bốn Trung Tâm Tu học. Lãnh đạo tinh PGVN hiện nay tại Na Uy là Thượng Tọa Thích Trí Minh, viện chủ Chùa Khuôn Việt, ở vùng Lovenstad, ngài được xem là một giảng sư tận tụy với công cuộc hoàng dương Phật Pháp tại Na Uy nói riêng và kháp châu Châu nói chung. Phật giáo VN tại Na Uy đang từng bước phát triển và hòa nhập vào xã hội của đất nước ở miền Bắc Âu châu này.

Giống như các quốc gia Tây phương khác, Na Uy đã trải qua một thời kỳ thay đổi và biến chuyển, mất đi những gì trước kia của nó kể từ khi tôn giáo, triết học và các nền văn hóa khác được đưa vào. Nhưng sự biến đổi này đã đến lúc chấm dứt. Hay nói khác hơn, sự đam mê và tận hưởng vật chất đã dần dần rơi vào lãng quên và hầu hết giới trẻ Na Uy ngày nay đang bắt đầu tìm về giá trị tinh thần và đạo đức của các tôn giáo để làm nền tảng cho cuộc sống của họ. Trong sự đổi thay và phát triển mới này, Phật giáo là một tôn giáo đóng vai trò chủ đạo.

(Theo Haarvard Lorentzen's Newsletter, Sjovegan, Norway, 02/1995)

Thích Nguyên Tạng,
Chùa Quảng Ðức
Melbourne, Australia

[ Trở Về ]