|
[01] Chương
I
Tương Ưng Chư
Thiên
-ooOoo-
I. Phẩm Cây
Lau
I: Bộc Lưu (S.I,1)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn
ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
Rồi một vị Thiên, khi
đêm đã gần tàn, với nhan
sắc thù thắng chói sáng toàn vùng
Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, vị Thiên ấy bạch
Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả, làm sao
Ngài vượt khỏi bộc lưu?
-- Này Hiền giả, không đứng
lại, không bước tới, Ta vượt khỏi
bộc lưu.
-- Thưa Tôn giả, làm sao
không đứng lại, không bước tới,
Ngài vượt khỏi bộc lưu?
-- Này Hiền giả, khi Ta đứng
lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả,
khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do
vậy, này Hiền giả, không đứng lại,
không bước tới, Ta vượt khỏi bộc
lưu.
(Vị Thiên):
Từ lâu, tôi mới
thấy
Bà-la-môn tịch tịnh.
Không đứng, không
bước tới,
Vượt chấp trước
ở đời.
Vị Thiên ấy nói như
vậy và bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Vị Thiên ấy biết được: "Thế Tôn
đã chấp nhận ta". Vị ấy đảnh
lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng
về Ngài, rồi biến mất tại chỗ.
II. Giải Thoát (Si.2)
... Ở Sàvatthi. Rồi một vị
Thiên, khi đêm đã gần tàn,
với nhan sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn. Sau
khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên. Ðứng một
bên, vị Thiên ấy bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả, Ngài
có biết giải thoát, thoát ly, viễn ly
cho các chúng sanh không?
-- Này Hiền giả, Ta có biết
giải thoát, thoát ly, viễn ly cho các
chúng sanh.
-- Thưa Tôn giả, như thế
nào Ngài biết giải thoát, thoát ly, viễn
ly cho các chúng sanh?
Hỷ, tái sanh đoạn
tận,
Tưởng, thức được
trừ diệt,
Các thọ diệt, tịch tịnh,
Như vậy này Hiền giả,
Ta biết sự giải thoát,
Thoát ly và viễn ly,
Cho các loại chúng sanh.
III. Ðưa Ðến Ðoạn
Tận - (Tạp 36.9. Ðại 2,262b. Biệt Tạp
8.7, Ðại 2,427b). (S.i,2)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Mạng sống bị dắt
dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già
nua,
Không có nơi dừng
bước.
Ai đem tâm quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy làm các công
đức,
Ðưa đến chơn an lạc.
(Thế Tôn):
Mạng sống bị dắt
dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già
nua,
Không có nơi dừng
bước.
Ai đem tâm quán tưởng,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy bỏ mọi thế lợi,
Tâm hướng cầu tịch
tịnh.
IV. Thời Gian Trôi Qua (Biệt Tạp
8.8, Ðại 2,427b) (S.i,3)
... (Nhân duyên ở (Sàvatthi
), đứng một bên, vị Thiên ấy
nói lên bài kệ này trước mặt Thế
Tôn:
Thời gian (lặng) trôi
qua,
Ðêm (ngày luôn)
di động,
Tuổi tác buổi thanh xuân,
Tiếp tục bỏ chúng ta.
Những ai chịu quán sát,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy làm các công
đức,
Ðưa đến (chơn) an
lạc.
(Thế Tôn):
(Thời gian lặng) trôi
qua,
Ðêm (ngày luôn)
di động,
Tuổi tác buổi thanh xuân,
Tiếp tục bỏ chúng ta.
Những ai chịu quán sát,
Sợ hãi tử vong này,
Hãy bỏ mọi thế lợi,
Tâm hướng cầu tịch
tịnh.
V. Bao Nhiêu Phải Cắt Ðoạn.
(S.i,5)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Phải cắt đoạn
bao nhiêu,
Phải từ bỏ bao nhiêu,
Tu tập thêm bao nhiêu,
Vượt qua bao trói buộc,
Ðể được có
danh xưng,
Tỷ-kheo vượt bộc lưu?
(Thế Tôn):
Phải cắt đoạn
đến năm,
Phải từ bỏ đến
năm,
Tu tập thêm năm pháp
(lực),
Vượt qua năm trói buộc,
Ðể được có
danh xưng,
Tỷ-kheo "vượt bộc lưu".
VI. Tỉnh Giác (S.i,5)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Có bao pháp mê
ngủ,
Khi pháp khác tỉnh giác?
Có bao pháp tỉnh giác,
Khi pháp khác mê ngủ?
Có bao nhiêu việc làm
Ðưa ta đến trần
cấu?
Có bao nhiêu việc làm
Khiến ta được thanh tịnh?
(Thế Tôn):
Có năm pháp mê
ngủ,
Khi pháp khác tỉnh giác,
Có năm pháp tỉnh
giác,
Khi pháp khác mê ngủ.
Chính có năm việc làm
Ðưa ta đến trần
cấu,
Chính có năm việc làm
Khiến ta được thanh tịnh.
VII. Không Liễu Tri (S.i,4)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Những ai với các
pháp,
Không liễu tri thấu suốt,
Bị hướng dẫn lầm
lạc,
Vòng quanh các dị giáo.
Họ mê ngủ triền miên,
Họ không có tỉnh giác,
Nay thật đã đến
thời,
Họ cần phải thức tỉnh.
(Thế Tôn):
Những ai với các
pháp,
Khéo liễu tri sáng suốt,
Không bị dẫn lầm
lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ chứng Chánh đẳng
giác.
Họ liễu tri viên mãn,
Trên đường không
thăng bằng,
Họ bước thật thăng
bằng.
VIII. Mê Loạn (Tạp 22.5,
Ðại 2,154b. Biệt Tạp 9.5, Ðại 2,435c) (S.i,4)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Những ai đối
các pháp,
Quá đắm say mê
loạn,
Bị hướng dẫn lầm
lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ mê ngủ triền miên,
Họ không có tỉnh giác,
Nay thật đã đến
thời,
Họ cần phải thức tỉnh.
(Thế Tôn):
Những ai đối
các pháp,
Không đắm say mê
loạn,
Không bị dẫn lầm
lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ chứng Chánh đẳng
giác.
Họ liễu tri viên mãn,
Trên đường không
thăng bằng,
Họ bước thật thăng
bằng.
IX. Mong Muốn Kiêu Mạn
(Tạp 36.4, Ðại 2,261a. Biệt Tạp 8.2, Ðại
2,426a) (S.i,4)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Ðối vị ưa
kiêu mạn,
Ở đây không điều
phục,
Không trí tuệ sáng suốt,
Không định tỉnh
nhiếp tâm,
Ðộc thân trú rừng
núi,
Sống với tâm phóng
dật,
Vị ấy không vượt
khỏi,
Sự chi phối ma lực.
(Thế Tôn):
Từ bỏ mọi kiêu
mạn,
Tâm tư khéo nhiếp định,
Với tâm khéo tư sát,
Giải thoát mọi phiền trược,
Ðộc thân trú rừng
núi (giới),
Với tâm không phóng
dật,
Vị ấy vượt thoát
khỏi,
Sự chi phối ma lực.
X. Rừng Núi (Tạp 36.3,
Ðại 2,260c. Biệt Tạp 8.1, Ðại 2,426a) (S.i,5)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Thường sống trong
rừng núi,
Bậc Thánh sống Phạm
hạnh,
Một ngày ăn một buổi,
Sao sắc họ thù diệu?
(Thế Tôn):
Không than việc đã
qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành.
II. Phẩm Vườn
Hoan Hỷ
I. Vườn Hoan Hỷ (Tạp 22.1,
Ðại 2,153c) (S.i,5) (Tăng 31.9. Tứ Lạc,
Ðại 2,672b) (Biệt Tạp 9.1, Ðại 2,435a)
Như vậy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại
vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này
các Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Thuở xưa, này các
Tỷ-kheo, có vị Thiên thuộc cõi trời
Ba mươi ba, với chúng Thiên nữ vây
quanh, du hí ở vườn Hoan Hỷ, thọ hưởng
năm thiên dục công đức. Bây
giờ, vị Thiên ấy nói lên bài
kệ này:
Chúng không biết đến
lạc,
Nếu không thấy Hoan Hỷ,
Chỗ trú cả Trời, Người,
Cõi ba mươi lừng
danh.
Ðược nghe nói vậy,
này các Tỷ-kheo, một vị Thiên khác
đáp vị Thiên ấy với bài kệ:
Kẻ ngu, sao không biết,
Vị ứng cúng đã
nói:
"Mọi hành là vô thường,
Tự tánh phải sanh diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc."
II. Vui Thích (Tạp 36.12,Ðại
2,263a) (S.i,6) (Biệt Tạp 8,11, Ðại 2,428a)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Cha đối con vui thích
,
Chủ với bò vui thích,
Người sanh y, vui thích
,
Không sanh y, không vui.
(Thế Tôn):
Cha đối con sầu
muộn ,
Chủ với bò sầu muộn,
Người sanh y, sầu muộn,
Không sanh y, không sầu.
III. Không Ai Bằng Con (Tạp
36.14, Ðại 2,263b) (S.1,6) (Biệt Tạp 12.19, Ðại
2,458c)
... Ðứng một bên, vị
Thiên ấy nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Thương ai bằng thương
con,
Của nào bằng bò
nhà,
Sáng nào bằng mặt
trời,
Nước nào hơn biển cả.
(Thế Tôn):
Thương ai bằng thương
mình,
Của nào bằng lúa
gạo,
Sáng nào bằng trí
tuệ,
Nước nào hơn mưa
rào.
IV. Giai Cấp Sát Ðế Lỵ
(Tạp 36.15 Sát-lỵ, Ðại 2,263b) (S.i,6)
Giữa các hàng
hai chân,
Sát-lỵ là tối thắng,
Giữa các loài bốn
chân,
Bò đực là tối
thắng,
Trong các hàng thê thiếp,
Quý nữ là tối thắng.
Trong các hàng con trai,
Trưởng nam là tối
thắng.
(Thế Tôn):
Giữa các loài
hai chân,
Chánh giác là tối
thắng.
Giữa các loài bốn
chân,
Thuần chủng là tối
thắng.
Trong các hàng thê thiếp,
Nhu thuận là tối thắng.
Trong các hàng con trai,
Trung thành là tối thắng.
V. Tiếng Ðộng Rừng Sâu
(hay Thân tịch tịnh) (S.i,7) (Tạp 50.II, An
trú, Ðại 2,360b) (Biệt Tạp 16.26, Ðại
2,490b)
Nay là thời giữa
trưa,
Loài chim nghỉ yên lặng,
Vang động tiếng rừng sâu,
Ta run, ta khiếp sợ.
(Thế Tôn):
Nay là thời giữa
trưa,
Loài chim nghỉ yên lặng,
Vang động tiếng rừng sâu,
Ta vui, Ta thích thú.
VI. Ngủ Gục, Biếng Nhác
(Tạp 22.23, Ðại 2,160a) (S.i,7) (Biệt Tạp 9.15,
Ðại 2,437c)
Ngủ gục, nhác,
ngáp dài,
Không vui, ăn quá độ,
Ở đây, đối chúng
sanh,
Thánh đạo không
hiển lộ.
Ngủ gục, nhác, ngáp
dài,
Không vui, ăn quá độ,
Với tinh tấn, đoạn
chúng,
Thánh đạo được
thanh tịnh.
VII. Khó Làm (hay Con rùa)
(Tạp 22.25, Ðại 2,169b) (S.i,7) (Biệt Tạp 9,14,
Ðại 2,437b)
Khó làm, khó
kham nhẫn,
Thiếu trí, hành Sa-môn,
Chỗ kẻ ngu thối đọa,
Chỗ ấy đầy chướng
ngại.
Bao ngày hành Sa-môn
Nếu tâm không chế ngự,
Mỗi bước, phải sa đọa,
Nô lệ cho suy tư,
Như rùa rút chân
cẳng,
Trong mai rùa của mình.
Vị Tỷ-kheo cũng vậy,
Thâu nhiếp mọi suy tư,
Không tham dính vật gì,
Không làm hại người
nào,
Hoàn toàn thật tịch
tịnh,
Không chỉ trích một
ai.
VIII. Tàm Quý (S.i,7)
Người được
tàm chế ngự,
Tìm được ai ở
đời?
Ai biết ngăn chỉ trích,
Như ngựa hiền bóng roi.
Người được tàm
chế ngự,
Sống thường thường
chánh niệm,
Vị ấy đạt kết quả,
Khổ đau được đoạn
tận,
Bước những bước
thăng bằng,
Trên đường không
thăng bằng.
IX. Am Tranh (S.i.8)
Ngài không có
am tranh,
Ngài không có tổ
ấm,
Ngài không có dây
giăng,
Ngài thoát khỏi hệ phược.
(Thế Tôn):
Ta không có am tranh,
Ta không có tổ ấm,
Ta không có dây giăng,
Ta thoát khỏi hệ phược.
(Vị Thiên):
Con nói am là gì?
Nói tổ ấm là gì?
Nói dây giăng là
gì?
Nói hệ phược là gì?
(Thế Tôn):
Ông nói am là
mẹ,
Nói tổ ấm là vợ,
Nói dây giăng là
con,
Nói hệ phược là ái.
(Vị Thiên):
Lành thay, Ngài không
am!
Lành thay, không tổ ấm!
Lành thay, không dây giăng!
Lành thay, Ngài thoát
phược!
X. Samiddhi (Tạp 38.17, Ðại
2,281c) (S.i,8) (Biệt Tạp I.17) Ðại 2,379a)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Vương
Xá tại Tapodàràma (Tịnh xá Suối
nước nóng).
2) Tôn giả Samiddhi, khi đêm
đã gần tàn, thức dậy và
đi đến suối nước nóng để tắm
rửa tay chân. Sau khi tắm rửa tay chân, ra
khỏi suối nước nóng, Tôn giả
đứng, đắp một tấm y để phơi
tay chân cho khô.
3) Rồi một vị Thiên,
khi đêm đã gần tàn, với dung
sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng
suối nước nóng, đi đến Tôn
giả Samiddhi, sau khi đến, đứng giữa hư
không, nói lên bài kệ với Tôn giả
Samiddhi:
Không hưởng, Ông
khất thực,
Nay khất thực, không
hưởng,
Hãy hưởng rồi khất
thực,
Chớ uổng phí thời gian.
(Samiddhi):
Thời Ông, ta không
biết.
Thời ta, ẩn không hiện.
Không hưởng, ta khất
thực,
Không uổng thời gian ta.
4) Rồi vị Thiên ấy đứng
xuống đất và thưa với Tôn giả
Samiddhi:
-- Này Tỷ-kheo, Ông còn trẻ
tuổi mà đã xuất gia, niên thiếu,
tóc còn đen nhánh trong tuổi thanh xuân.
Trong thời trẻ thơ của tuổi đời,
Ông không thọ hưởng các ái dục.
Này Tỷ-kheo, hãy thọ hưởng các ái
dục của người đời. Chớ có
bỏ hiện tại mà chạy theo những gì
bị thời gian chi phối.
5) -- Này Hiền giả, ta không
bỏ hiện tại và chạy theo những gì
bị thời gian chi phối. Và này Hiền giả,
chính ta bỏ những gì bị thời gian
chi phối để chạy theo hiện tại. Này Hiền
giả, Thế Tôn đã nói, các dục
bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều
phiền não (Upàyàsà); nguy hiểm ở đấy
càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc
về hiện tại, không bị thời gian chi phối,
đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, chỉ người trí
mới tự mình giác hiểu.
6) -- Và này Tỷ-kheo, như
thế nào mà Thế Tôn đã nói các
dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau,
nhiều phiền não, nguy hiểm ở đấy càng
nhiều hơn? Như thế nào thuộc về hiện tại là
pháp này, không bị thời gian chi phối,
đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, chỉ người trí
mới tự mình giác hiểu?
7) -- Này Hiền giả, tôi là
người mới xuất gia, mới đến đây
không bao lâu. Tôi không thể giải thích
rộng rãi cho Ông pháp và luật này.
Nhưng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác nay ở Ràjagaha (Vương Xá) tại
tịnh xá Tapoda (Suối nước nóng) hãy
đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này.
Thế Tôn trả lời cho Ông như thế nào,
hãy như vậy thọ trì.
8) -- Này Tỷ-kheo, không dễ
gì cho chúng tôi được đến gặp
bậc Thế Tôn ấy, một bậc được
chư Thiên khác, có đại uy lực
đoanh vây. Này Tỷ-Kheo, nếu Ngài đi đến
bậc Thế Tôn ấy và hỏi ý nghĩa này,
chúng tôi có thể đến để nghe pháp.
9) -- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Samiddhi vâng đáp
vị Thiên ấy, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Tôn giả Samiddhi bạch Thế Tôn:
10) -- Ở đây, bạch Thế Tôn,
sau khi đêm đã gần tàn, con thức
dậy và đi đến suối nước nóng
để tắm rửa tay chân. Sau khi tắm rửa
tay chân, ra khỏi suối nước nóng,
con đứng đắp một tấm y để
phơi tay chân cho khô. Bạch Thế Tôn, rồi
một vị Thiên, sau khi đêm vừa mãn,
với dung sắc thù thắng, chói sáng
toàn vùng nước nóng, đi đến
con, sau khi đến, đứng giữa hư không
và nói lên bài kệ này:
"Không hưởng, Ông
khất thực,
Nay khất thực, không
hưởng,
Hãy hưởng rồi khất
thực,
Chớ uổng phí thời gian."
11) Khi nghe nói vậy, bạch Thế
Tôn, con trả lời với vị Thiên ấy
bằng bài kệ:
"Thời Ông, ta không
biết,
Thời ta, ẩn không hiện,
Không hưởng, ta khất
thực,
Không uổng thời gian ta."
12) Bạch Thế Tôn, rồi vị
Thiên ấy đứng xuống đất
và thưa với con:
"-- Này Tỷ-kheo, Ông còn
trẻ tuổi mà đã xuất gia, niên
thiếu, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân.
Trong thời trẻ thơ của tuổi đời,
Ông không thọ hưởng các dục. Này
Tỷ-kheo, hãy thọ hưởng các dục lạc
của người đời. Chớ có bỏ
hiện tại để chạy theo những gì bị
thời gian chi phối."
13) Khi được nói vậy,
bạch Thế Tôn, con nói với vị Thiên
ấy:
"-- Này Hiền giả, ta không
bỏ hiện tại để chạy theo những gì
bị thời gian chi phối. Và này Hiền giả,
chính ta bỏ những gì bị thời gian
chi phối để chạy theo hiện tại. Những gì
thuộc thời gian, này Hiền giả, là các
dục, được nói đến là nhiều
khổ đau, nhiều phiền não (upàyàsa), nguy
hiểm ở đấy lại nhiều hơn. Còn pháp
này thuộc hiện tại, không bị thời gian
chi phối, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, chỉ người
trí mới tự mình giác hiểu."
14) Khi được nói vậy,
bạch Thế Tôn, vị Thiên ấy nói với
con:
"-- Và này Tỷ-kheo, như thế
nào mà Thế Tôn đã nói các
dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau,
nhiều phiền não, nguy hiểm ở đây càng nhiều
hơn? Như thế nào thuộc về hiện tại là
pháp này không bị thời gian chi phối,
đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, chỉ người trí
mới tự mình giác hiểu?"
15) Khi được nói vậy,
bạch Thế Tôn, con nói với vị Thiên
ấy:
"-- Này Hiền giả, tôi là
người mới xuất gia, mới đến đây
không bao lâu. Tôi không thể giải thích
rộng rãi cho Ông về pháp và luật
này. Nhưng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác nay ở Ràjagaha (Vương
Xá), tại tịnh xá Tapoda (Suối nước
nóng). Hãy đi đến Thế Tôn và hỏi
ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời cho Ông
như thế nào, hãy như vậy thọ trì."
16) Khi được nói vậy,
bạch Thế Tôn, vị Thiên ấy nói với
con:
" -- Này Tỷ-kheo, không dễ
gì cho chúng tôi được đến gặp
bậc Thế Tôn ấy, một bậc được
các chư Thiên khác có đại
uy lực đoanh vây. Này Tỷ-kheo, nếu Ngài
đi đến bậc Thế Tôn và hỏi ý nghĩa
ấy, chúng tôi cũng sẽ đến và
nghe pháp."
-- Bạch Thế Tôn, nếu vị Thiên
ấy nói sự thật, thời vị ấy
ở đây, không xa bao nhiêu.
17) Khi được nói vậy,
vị Thiên ấy nói với Tôn giả Samiddhi
như sau:
-- Hãy hỏi đi, Tỷ-kheo!
Hãy hỏi đi, Tỷ-kheo! Tôi đã đến
rồi.
18) Rồi Thế Tôn nói lên
bài kệ với vị Thiên ấy:
Chúng sanh được
hiểu biết,
Những điều được
nói lên,
Và chấp trước thái
độ,
Trên những điều được
nói.
Nếu họ không liễu tri
Những điều được
nói lên,
Họ đi đến trói buộc.
Do thần chết chi phối,
Nếu họ liễu tri được
Những điều được
nói lên,
Họ không có tưởng
tri,
Những điều được
nói ra.
Ðối với vị như
vậy,
Lỗi lầm nhất định
không.
Nếu các Ông có biết,
Hãy nói lên Dạ-xoa.
19) -- Bạch Thế Tôn, con không
có hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi những
điều Thế Tôn nói lên một cách vắn
tắt. Lành thay, nếu Thế Tôn nói lên cho
con để con có thể hiểu một cách rộng rãi
những điều Thế Tôn nói lên một cách
vắn tắt.
(Thế Tôn):
20)
Bằng, thắng hay thua Ta,
Nghĩ vậy đấu tranh
khởi;
Cả ba không dao động,
Bằng, thắng không khởi
lên.
Nếu như Ông có biết,
Hãy nói lên, Dạ-xoa.
21) -- Bạch Thế Tôn, con không
có hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi những
điều Thế Tôn nói lên một cách vắn
tắt. Lành thay, nếu Thế Tôn nói lên cho
con để con có thể hiểu một cách rộng rãi
những điều Thế Tôn nói lên một cách
vắn tắt.
22) (Thế Tôn):
Hãy từ bỏ tính
toán,
Không chạy theo hư tưởng,
Từ bỏ mọi tham ái,
Ðối danh sắc ở đời,
Vị ấy đoạn triền
phược,
Không lo âu, không ái.
Chư Thiên và loài
Người,
Ðời này hay đời
sau,
Ở cảnh giới chư Thiên,
Hay tại mọi trú xứ,
Tìm cầu nhưng không
gặp,
Vết tích của vị ấy.
Nếu Ông biết người ấy
Hãy nói lên, Dạ-xoa.
23) -- Bạch Thế Tôn, lời nói
vắn tắt của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa rộng
rãi như sau:
Khắp thế giới chớ
làm,
Ðiều ác thân, miệng,
ý,
Từ bỏ mọi ái dục,
Chánh niệm, tâm tỉnh
giác,
Không khổ hạnh ép
xác,
Vô bổ, không lợi ích.
III. Phẩm
Kiếm (S.I,13)
... (Nhân duyên ở Sàvatthi).
Ðứng một bên, vị Thiên ấy nói
lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
I. Kiếm:
Như kiếm đã chạm
da,
Như lửa cháy trên
đầu,
Tỷ-kheo hãy chánh niệm,
Xuất gia bỏ ái dục.
(Thế Tôn):
Như kiếm đã chạm
da,
Như lửa cháy trên
đầu,
Tỷ-kheo hãy chánh niệm,
Xuất gia bỏ thân kiến.
II. Xúc Chạm
Không xúc, không
có chạm,
Có xúc, thời có
chạm,
Nên hại người không
hại,
Tức có xúc, có
chạm,
Ai hại người không
hại,
Người tịnh, không ô
nhiễm,
Kẻ ngu hái quả ác,
Như ngược gió tung bụi.
III. Triền Phược
Nội triền và ngoại
triền,
Chúng sanh bị triền phược,
Con hỏi Gotama,
Ai thoát khỏi triền này?
(Thế Tôn):
Người trú giới
có trí,
Tu tập tâm và tuệ,
Nhiệt tâm và thận trọng,
Tỷ-kheo ấy thoát triền.
Với ai, đã từ bỏ
Tham, sân và vô minh,
Bậc Lậu tận, ứng
cúng,
Vị ấy thoát triền phược.
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn tận,
vô dư,
Ðoạn chướng ngại,
sắc tưởng,
Chỗ ấy triền phược đoạn.
IV. Chế Ngự Tâm (S.i,14)
Chỗ nào ý chế ngự,
Chỗ ấy đau khổ tận.
Ý chế ngự hoàn toàn,
Thoát đau khổ hoàn
toàn.
(Thế Tôn):
Không nên chế ngự
ý,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Chớ có chế ngự ý,
Nếu tự chủ đạt
được.
Chỗ nào ác pháp khởi,
Chỗ ấy chế ngự ý.
V. Vị A-La-Hán (Tạp 22.6
- 7, La-hán, Ðại 2,154b (S.i,14) ( Biệt Tạp 9.6,
Ðại 2,435c)
Vị Tỷ-kheo La-hán,
Ðã làm điều phải
làm,
Các lậu được
đoạn tận,
Thân này, thân tối
hậu.
Vị ấy có thể nói:
"Chính tôi vừa nói
lên"
Vị ấy có thể nói:
"Họ nói là của tôi".
(Thế Tôn):
Vị Tỷ-kheo La-hán,
Ðã làm điều phải
làm,
Các lậu được
đoạn tận,
Thân này, thân tối
hậu.
Vị ấy có thể nói:
"Chính tôi vừa nói
lên",
Vị ấy có thể nói:
"Họ nói là của tôi".
Vị ấy khéo biết rõ,
Danh xưng ở thế gian,
Vì chỉ là danh xưng,
Vị ấy cũng danh xưng.
(Vị Thiên):
Vị Tỷ-kheo La-hán,
Ðã làm điều phải
làm,
Các lậu được
đoạn tận,
Thân này, thân tối
hậu.
Có phải Tỷ-kheo ấy,
Ði gần đến kiêu
mạn,
Khi vị ấy có nói:
"Chính tôi vừa nói
lên".
Khi vị ấy có nói:
"Họ nói là của tôi"?
(Thế Tôn):
Ai đoạn tận kiêu
mạn,
Không còn những buộc
ràng,
Mọi hệ phược kiêu mạn,
Ðược hoàn toàn
đoạn tận.
Vị có trí sáng
suốt,
Vượt khỏi mọi hư tưởng,
Vị ấy có thể nói:
"Chính tôi vừa nói
lên",
Vị ấy có thể nói:
"Họ nói là của tôi".
Vị ấy khéo biết rõ,
Danh xưng ở thế gian,
Vì chỉ là danh xưng,
Vị ấy cũng danh xưng.
VI. Ánh Sáng (Tạp, Ðại
2,360b) (S.i,15) (Biệt Tạp 15.12, Ðại 2,478c)
Vật gì chiếu sáng
đời,
Do chúng, đời chói
sáng?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Muốn biết lời giải đáp.
(Thế Tôn):
Bốn vật chiếu sáng
đời,
Thứ năm, đây không
có.
Ngày, mặt trời sáng
chói,
Ðêm, mặt trăng tỏ
rạng,
Lửa cháy đỏ đêm
ngày,
Chói sáng khắp mọi nơi.
Chánh giác sáng tối
thắng,
Sáng này, sáng vô
thượng.
VII. Nước Chảy (S.i,15)
Chỗ nào nước chảy
ngược?
Chỗ nào nước xoáy
dừng?
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt,
không dư?
Chỗ nào nước và đất,
Lửa, gió không vững
trú,
Do vậy nước chảy ngược,
Chỗ ấy nước xoáy
dừng,
Chỗ ấy danh và sắc,
Ðược đoạn diệt,
không dư.
VIII. Giàu Lớn (S.i,15)
Sát-đế-lỵ giàu
lớn,
Tài sản, quốc độ
lớn,
Luôn luôn ganh tî nhau,
Hưởng dục không biết
ngán,
Giữa người sống dao
động,
Trôi theo dòng tái sanh.
Ai bỏ tật và ái,
Không dao động giữa
đời.
(Thế Tôn):
Vị xuất gia bỏ
nhà,
Bỏ con, gia súc, thân,
Bỏ tham và bỏ sân,
Và từ bỏ vô minh,
Bậc Lậu tận, La-hán,
Không dao động giữa
đời.
IX. Bốn Bánh Xe (S.i,16)
Bốn bánh xe, chín
cửa,
Ðầy uế, hệ lụy tham,
Chìm đắm trong bùn
nhơ,
Ôi, thưa bậc Ðại
Hùng,
Sanh thú người như
vậy,
Tương lai sẽ thế nào?
(Thế Tôn):
Cắt hỷ và buộc
ràng,
Dục tham và tà ác,
Ái căn được
đoạn tận,
Sanh thú sẽ như vậy.
X. Con Sơn Dương (S.i,16)
Chân như chân sơn
dương,
Vừa thon lại vừa mạnh,
Ăn uống có chừng mực,
Không tham lam, say đắm,
Như sư tử, voi rừng,
Ðộc hành, không
dục vọng.
Sau khi đến, con hỏi,
Làm sao thoát khổ đau?
(Thế Tôn):
Có năm dục ở
đời,
Ý căn là thứ sáu,
Ở đây, từ ước
muốn,
Như vậy thoát khổ đau.
IV. Phẩm Quần
Tiên
I. Với Người Thiện (S.i
16)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn
ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Rồi rất nhiều quần tiên
Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên.
3) Ðứng một bên, một
vị Thiên nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tốt hơn,
không xấu.
4) Rồi một vị Thiên khác
lại nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tuệ, không gì
khác.
5) Rồi một vị Thiên khác
lại nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Không sầu, giữa sầu
muộn.
6) Rồi một vị Thiên khác
lại nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh sanh thiện thú.
8) Rồi một vị Thiên khác
lại nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh thường hưởng
lạc.
9) Rồi một vị Thiên khác
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, trong tất
cả vị ấy, ai đã nói lên một
cách tốt đẹp?
-- Về vấn đề này, tất
cả các Ông đều nói lên một cách
tốt đẹp. Tuy vậy, hãy nghe lời Ta
nói:
Hãy thân với người
lành,
Hãy gần gũi người
thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải thoát mọi khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Quần Tiên ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
II. Xan Tham (Tạp, Ðại
2,354c) (Biệt Tạp, Ðại 2,473b) (S.i,18)
1) Một thời Thế Tôn trú
ơ ủ Sà vatthi, Jetavana, tại vườn ông
Anàthapindika.
2) Rồi rất nhiều quần tiên
Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng, chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên.
3) Ðứng một bên, một
vị Thiên nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Vì xan tham, phóng
dật,
Như vậy không bố
thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố
thí.
4) Rồi một vị Thiên khác
nói lên bài kệ này trước mặt Thế
Tôn:
Ðiều kẻ xan tham sợ,
Nên không dám bố
thí,
Sợ ấy đến với họ,
Chính vì không bố
thí.
Ðiều kẻ xan tham sợ,
Chính là đói
và khát,
Kẻ ngu phải cảm thọ,
Ðời này và đời
sau.
Vậy hãy chế xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vững an trú,
Công đức trong đời
sau.
5) Rồi một vị Thiên khác
nói lên bài kệ này trước mặt Thế
Tôn:
Không chết giữa người
chết,
Như thiện hữu trên đường,
San sẻ lương thực
hiếm,
Thường pháp là như
vậy.
Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ
khó,
Ðong được ngàn
đồng vàng.
6) Rồi một vị Thiên khác
nói lên bài kệ này trước mặt Thế
Tôn:
Khó thay sự đem
cho,
Khó thay làm hạnh ấy.
Kẻ ác khó tùy
thuận,
Khó thay pháp bậc lành.
Do vậy kẻ hiền, ác,
Sanh thú phải sai khác,
Kẻ ác sanh địa
ngục,
Người lành lên cõi
trời.
7) Rồi một vị Thiên khác
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, trong tất
cả vị ấy, vị nào đã nói
một cách tốt đẹp?
-- Về vấn đề này, tất
cả các Ông đã nói một cách
tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe Ta:
Sở hành vẫn chơn
chánh,
Dầu phải sống vụn
vặt,
Dầu phải nuôi vợ con,
Với đồ ăn lượm
lặt,
Nhưng vẫn bố thí
được,
Từ vật chứa ít
ỏi,
Từ ngàn người bố
thí,
Từ trăm ngàn vật
cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.
8) Rồi một vị Thiên khác
nói lên bài kệ này với Thế Tôn:
Vì sao họ bố thí,
Rộng lớn nhiều như vậy,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố
thí?
Sao ngàn người bố
thí,
Từ trăm ngàn vật
cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy?
9) Rồi Thế Tôn nói lên
bài kệ này với vị Thiên ấy:
Có những người
bố thí,
Một cách bất bình
thường,
Sau khi chém và giết,
Mới làm vơi nỗi sầu.
Sự bố thí như vậy,
Ðầy nước mắt
đánh đập,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố
thí.
Từ ngàn người bố
thí,
Từ trăm ngàn vật
cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.
III. Lành Thay (S.i,20)
1) Ở Sàvatthi.
2) Rồi rất nhiều quần tiên
Satullapa, khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng, chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên.
3) Ðứng một bên, một
vị Thiên nói lên lời cảm hứng
này trước mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí!
Kính thưa bậc Tôn
giả.
Vì xan tham, phóng dật,
Như vậy không bố
thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố
thí.
4) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm ứng này trước
mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí,
Kính thưa bậc Tôn
giả!
Nhưng thật tốt lành
thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ
khó,
Ðong được ngàn
đồng vàng.
5) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí,
Kính thưa bậc Tôn
giả!
Nhưng thật tốt lành
thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng
tin.
Bố thí và đánh
nhau,
Ðược nói là
bằng nhau,
Một số ít kẻ lành,
Thắng xa số đông
người.
Ví dầu cho có ít,
Nhưng cho với lòng tin,
Do vậy được an lạc,
Vì lợi ích cho người.
6) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí,
Kính thưa bậc Tôn
giả!
Nhưng thật tốt lành
thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng
tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Ai là người bố thí,
Với tàn sản hợp pháp,
Do nỗ lực tinh tấn,
Nhờ vậy thâu hoạch
được;
Vị ấy vượt dòng
suối,
Thần chết Dạ-ma giới,
Sau khi chết được sanh,
Chỗ trú xứ chư Thiên.
7) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí,
Kính thưa bậc Tôn
giả!
Nhưng thật tốt lành
thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng
tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Bố thí có suy tư,
Bậc Thiện Thệ tán thán.
Bố thí cho những vị,
Ðáng kính trọng ở
đời,
Bố thí những vị
ấy,
Ðược hưởng quả
phước lớn,
Như hạt giống tốt
đẹp,
Gieo vào ruộng tốt lành.
8) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
Lành thay sự bố
thí,
Kính thưa bậc Tôn
giả!
Nhưng thật tốt lành
thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng
tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!
Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Lành thay sự tự chế,
Ðối với các chúng
sanh!
Giữa chúng sanh hữu tình,
Ai sống không làm hại,
Sợ người khác chỉ
trích,
Không làm ác, bất
thiện,
Họ khen kẻ nhút nhát,
Nhưng chỉ trích người
hùng,
Chính sợ bị chỉ trích,
Người lành không làm
ác.
9) Rồi một vị Thiên khác
bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, giữa chúng
con, lời nói ai được tốt lành?
-- Về vấn đề này, tất
cả các Ông đều nói lên một cách
tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe lời của
Ta:
Bố thí với lòng
tin,
Ðược tán thán
nhiều mặt,
Có pháp hơn bố
thí,
Pháp ấy là Pháp
cú.
Từ xưa, từ xa xưa,
Người lành, người
chơn thiện,
Với trí tuệ sáng suốt,
Ðạt đến cảnh Niết-bàn.
IV. Chúng Không Phải (S.i,22)
1) Một thời Thế Tôn trú
ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm),
tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô
Ðộc).
2) Rồi rất nhiều quần tiên
Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn,
với dung sắc thù thắng chói sáng
toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau
khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên.
3) Ðứng một bên, một
vị Thiên nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Giữa loài Người
chúng ta,
Có các dục vô
thường.
Ai hưởng chúng ở đời,
Bị chúng trói, chúng
buộc.
Phóng dật đối
với chúng,
Khó thoát ly với chúng,
Người nào khó thoát
ly,
Bị thần chết chinh phục.
Họa từ dục vọng sanh,
Khổ từ dục vọng khởi,
Dục vọng được nhiếp
phục,
Nhờ vậy họa nhiếp phục,
Tai họa được nhiếp phục,
Nhờ vậy khổ nhiếp phục.
Vật sai biệt ở đời,
Chúng không phải các
dục,
Chính tư niệm tham ái,
Là dục vọng con người.
Vật sai biệt tồn tại,
Như vậy ở trên đời,
Do vậy bậc Hiền trí,
Ðiều phục các dục
vọng.
Hãy từ bỏ phẫn
nộ,
Hãy nhiếp phục kiêu mạn,
Hãy vượt qua tất cả,
Mọi kiết sử trói buộc.
Chớ có quá chấp
trước,
Ðối với danh sắc
ấy,
Khổ không thể đến được,
Với ai không có gì.
Hãy từ bỏ tính
toán,
Không chạy theo hư tưởng,
Cắt đứt mọi tham ái,
Với danh sắc ở đời.
Vị ấy đoạn phiền
trược,
Không lo âu, không ái;
Chư Thiên và loài
Người,
Ðời này hay đời
sau,
Ở cảnh giới chư Thiên,
Hay tại mọi trú xứ,
Tìm cầu nhưng không
gặp,
Vết tích của vị ấy,
Họ tìm nhưng không thấy,
Vị giải thoát như
vậy.
(Tôn giả Mogharàjà nói
như vầy)
Chư Thiên và loài
Người,
Ðời này hay đời
sau,
Bậc tối thượng loài
Người,
Lo hạnh phúc chúng sanh,
Họ đảnh lễ vị ấy,
Nên tán thán họ không?
(Bậc Thế Tôn lên tiếng)
Này Mogharàjà
Họ cũng nên tán thán,
Bậc giải thoát như
vậy.
Này Tỷ-kheo khất sĩ,
Nếu họ biết Chánh pháp,
Ðoạn trừ được
nghi hoặc,
Họ trở thành giải thoát.
V. Hiềm Trách Thiên (S.i,23)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn
ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Rồi rất nhiều quần tiên
Ujjhànasannà (Hiềm trách thiên), sau khi đêm
đã gần mãn, với dung sắc thù
thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana,
đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, các vị
ấy đứng giữa hư không.
3) Rồi một vị Thiên đứng
giữa hư không, nói lên bài kệ này
trước mặt Thế Tôn:
Những ai nói mình
khác
Với điều họ thực có,
Thời mọi vật thọ dụng,
Xem như do trộm cắp,
Chẳng khác kẻ gian manh,
Dùng lừa đảo trộm
cắp.
Hãy nói điều có
làm,
Không nói điều không
làm,
Không làm nói có
làm,
Kẻ trí biết rõ họ.
(Thế Tôn):
Những ai chỉ biết nói,
Hay chỉ biết nghe thôi,
Những hạng người như
vậy,
Không thể nào tiến bộ.
Khó nhọc thay con đường,
Giúp kẻ trí giải
thoát.
Nhờ Thiền định thiêu
cháy,
Mọi trói buộc quần ma,
Kẻ trí không làm
vậy,
Sau khi biết thế tình,
Với trí, chứng Niết-bàn,
Vượt chấp trước
ở đời.
4) Rồi các quần tiên
ấy đứng xuống đất, cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn,
và bạch Thế Tôn:
-- Ðây là tội lỗi của
chúng con, bạch Thế Tôn. Chúng con đi
đến tội lỗi, vì ngu xuẩn, vì mê mờ,
vì bất thiện. Chúng con nghĩ chúng con
có thể công kích Thế Tôn. Bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn chấp nhận cho chúng con, lỗi lầm
là lỗi lầm để gìn giữ trong tương
lai.
5) Rồi Thế Tôn mỉm cười.
6) Các quần tiên ấy
càng tức tối thêm và bay lên hư
không.
7) Một vị Thiên nói bài
kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ai không chịu chấp
nhận,
Tội lỗi được phát
lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên
chặt.
Nếu không có tội lỗi,
Ở đây không lầm
lạc,
Hận thù không thể tiêu.
Do gì xem là thiện?
Với ai không tội lỗi?
Với ai không lầm lạc?
Ai không bị si mê?
Ai kẻ tri thường niệm?
(Thế Tôn):
Như Lai, bậc Giác
Ngộ,
Thương xót mọi hữu
tình,
Nơi Ngài không tội
lỗi,
Nơi Ngài không lầm
lạc.
Ngài không bị si mê,
Ngài chánh trí thường
niệm.
Ai không chịu chấp nhận,
Tội lỗi được phát
lộ,
Nội phẫn, ưa sân hận,
Hận thù càng kiên
chặt.
Ta không thích hận thù,
Ta nhận tội các Ông.
VI. Lòng Tin (S.i,25), (Tạp,
Ðại 2,354b) - (Biệt Tạp, Ðại 2,473a)
1) Một thời, Thế Tôn trú
ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm)
tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô
Ðộc).
2) Rồi rất nhiều quần tiên
SatullapaKàyikà, khi đêm đã gần
tàn, với dung sắc thù thắng chói
sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên.
3) Ðứng một bên, một
vị Thiên nói lên bài kệ này trước
mặt Thế Tôn:
Tín là người
thứ hai,
Là bạn của loài
Người,
Nếu không trú bất tín,
Ðược danh dự, xưng
tán,
Sau khi bỏ thân này,
Ðược sanh lên Thiên
giới.
Hãy từ bỏ phẫn
nộ,
Hãy nhiếp phục kiêu mạn,
Hãy vượt qua tất cả
Mọi kiết sử trói buộc.
Chớ có quá chấp
trước,
Ðối với danh sắc
ấy.
Tham không thể đến được,
Với ai không có gì.
Kẻ ngu không trí tuệ,
Mới đam mê, phóng
dật,
Kẻ trí không phóng
dật,
Như giữ tài vật quý.
Chớ đam mê, phóng
dật,
Chớ đắm say ái dục,
Thiền tư, không phóng dật,
Ðạt được tối
thắng lạc.
VII. Tụ Hội (S.i,26) - (Tạp,
Ðại 2.323a) (Biệt Tạp, Ðại 2.411a) (S.i,26)
(D. 20 Mahàsamaya, Trường, Ðại 1,79b - 81b)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa
dòng họ Sakka (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ),
ở rừng Ðại Lâm, cùng với đại
chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả là
bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười
phương thế giới phần lớn cũng thường
tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn
và chúng Tỷ-kheo.
2) Rồi bốn vị Tịnh
cư thiên (Suddàvàsà) suy nghĩ như
sau: "Thế Tôn nay ở giữa dân chúng Sakka,
thành Kapilavatthu, rừng Ðại Lâm, cùng
với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị,
tất cả đều là bậc A-la-hán. Và
chư Thiên ở mười phương thế giới,
phần lớn cũng thường tập hội để
chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
Vậy chúng ta hãy đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, mỗi chúng ta đọc một bài
kệ dâng lên Thế Tôn."
3) Rồi chư Thiên ấy
nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đã
co lại, hay co cánh tay đã duỗi ra, biến mất
từ Tịnh cư thiên và hiện ra trước
mặt Thế Tôn.
4) Chư Thiên ấy đảnh
lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Sau khi đứng một bên, một vị Thiên
đọc bài kệ trước Thế Tôn:
Ðại hội tại
Ðại Lâm,
Chư Thiên đồng tụ
tập,
Chúng con đến Pháp hội,
Ðảnh lễ chúng Bất
thắng.
5) Rồi các vị Thiên khác
cũng đọc lên một bài kệ trước
Thế Tôn:
Tại đây chúng
Tỷ-kheo,
Thiền định, tâm chánh
trực,
Như chủ xe nắm cương,
Bậc hiền hộ các căn.
6) Lại một vị Thiên khác
cũng đọc lên một bài kệ trước
Thế Tôn:
Như khóa gãy,
chốt tháo,
Trụ bị đào, tham
đoạn,
Sống thanh tịnh, vô cấu,
Có mắt, voi khéo điều.
7) Lại một vị Thiên khác
cũng đọc lên một bài kệ trước
mặt Thế Tôn:
Những ai quy y Phật,
Sẽ không đọa ác
thú,
Sau khi bỏ thân Người,
Sẽ sanh làm chư Thiên.
VIII. Miếng Ðá Vụn -
(Tạp, Ðại 2,355a) - (Biệt Tạp, Ðại
2,473c) - (S.i,27)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại
Ràjagaha (Vương Xá), tại vườn Nai
(Maddakucchi)
2) Lúc bấy giờ, chân
Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải.
Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ
đau, nhói đau, nhức nhối, khốc
liệt, không khoái tâm, không thích thú.
Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn
chịu, không phiền não.
3) Rồi Thế Tôn cho trải áo
Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại,
nằm xuống phía hông bên phải như
dáng điệu con sư tử, chân đặt
trên chân, chánh niệm tỉnh giác.
4) Rồi bảy trăm quần
tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã
gần mãn, với dung sắc thù thắng chói
sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên.
5) Ðứng một bên, một
vị Thiên đọc lên lời cảm hứng
này trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc
Long tượng. Và với tư cách Long tượng,
Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau
khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt,
không khoái tâm, không thích thú,
Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu,
không phiền não.
6) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc
Sư tử. Và với tư cách Sư tử,
Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ
đau... không có phiền não.
7) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là Lương
tuấn mã. Và với tư cách Lương
tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ
khởi lên, khổ đau... không có phiền
não.
8) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc
Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu
vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi
lên, khổ đau... không có phiền não.
9) Rồi một vị Thiên khác
nói lên lời cảm hứng này trước
mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là bậc
Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư
cách bậc Nhẫn nại Kiên cường,
Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ
đau... không có phiền não.
10) Rồi một vị Thiên
khác nói lên lời cảm hứng này
trước mặt Thế Tôn:
-- Sa-môn Gotama thật là một
bậc Khéo điều phục. Và với tư
cách là một bậc Khéo điều phục,
Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ
đau... không có phiền não.
11) Rồi một vị Thiên
khác nói lên lời cảm hứng này
trước mặt Thế Tôn:
-- Hãy xem tâm của Ngài
khéo được tu tập Thiền định và
giải thoát, không có nổi lên, không
có chìm xuống, mọi hành động được
tác thành, không có ai kích thích.
Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại
một Long tượng như vậy, một bậc Sư
tử như vậy, một bậc Lương tuấn
mã như vậy, một bậc Ngưu vương
như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên
cường như vậy, một bậc Nhiếp phục
như vậy, trừ phi là một người mù.
Các vị Bà-la-môn,
Tinh thông năm Vệ-đà,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được
giải thoát.
Tự tánh quá hạ
liệt,
Không đến bờ bên
kia,
Bị khát ái chi phối,
Bị giới cấm trói
buộc,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được
giải thoát.
Tự tánh quá hạ
liệt,
Không đến bờ bên
kia.
Ở đời không nhiếp phục,
Kiêu mạn cùng các
dục,
Tâm không được
an tịnh,
Không tu tập Thiền định.
Ở trong rừng cô độc,
Nhưng tâm tư phóng
dật,
Vị ấy khó vượt
khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
Nhiếp phục được kiêu
mạn,
Khéo tu tập Thiền định,
Tâm tư khéo an tịnh,
Giải thoát được
viên mãn,
Ở trong rừng cô độc,
Tâm tư không phóng
dật,
Vị ấy khéo vượt
khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
IX. Con Gái Của Pajjunna (Tạp,
Ðại 2,350a) (Biệt Tạp, 14.4, Ðại 2,469a)
(S.i,29)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Vesàli,
Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng
đường.
2) Rồi Kokanadà, con gái
của Pajjunna, sau khi đêm vừa mãn, với
dung sắc thù thắng chiếu sáng toàn vùng
Ðại Lâm, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên.
3) Ðứng một bên, Thiên
nữ Kokanadà, con gái của Pajjunna, nói
lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Bậc Chánh Ðẳng
Chánh Giác,
Thượng thủ các chúng
sanh,
Nay an trú Ðại Lâm,
Tại thành Vesàli,
Hãy để con đảnh
lễ,
Con gái Pajjunna,
Tên Kokanadà.
Từ trước con chỉ
nghe,
Bậc chứng ngộ Chánh
Giác.
Bậc vô thượng Pháp
Nhãn,
Bậc Chánh Ðẳng
Chánh Giác.
Ngày nay con có thể,
Biết được Chánh pháp
ấy,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc Mâu-ni Chánh Giác.
Những ai kém trí tuệ,
Khinh bác chống Thánh
pháp,
Sẽ rơi vào địa
ngục,
Mệnh danh Roruva,
Trải thời gian lâu dài,
Thọ lãnh nhiều thống khổ.
Những ai đối Thánh
pháp,
Kham nhẫn, tâm tịch tịnh,
Từ bỏ thân làm
người,
Viên mãn thân chư
Thiên.
X. Con Gái Của Pajjunna (Tạp,
Ðại 2, 349c) (Biệt Tạp 14.3, Ðại 2, 469a)
(S.i,30)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở
Vesàli, Ðại Lâm, tại Trùng Các
giảng đường.
2) Rồi Cùla - Kokanadà,
con gái của Pajjunna, sau khi đêm đã
gần mãn, với dung sắc thù thắng chói
sáng toàn vùng Ðại Lâm đi
đến Thế Tôn; sau khi đi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, Cùla-Kokanadà, con
gái của Pajjunna, nói lên bài kệ này
trước mặt Thế Tôn:
Con gái Pajjunna,
Tên Kokanadà.
Nhan sắc như điện quang,
Nàng đã đến tại
đây,
Ðảnh lễ Phật và
Pháp,
Nói kệ lợi ích này,
Dầu với nhiều pháp môn,
Con phân tích pháp này.
Nhưng lược nghĩa con nói,
Theo ý con hiểu biết,
Ở đời, chớ làm ác,
Cả ba: thân, khẩu, ý,
Từ bỏ mọi thứ dục,
Chánh niệm, tâm tỉnh
giác,
Không khổ hạnh ép
xác,
Vô bổ, không lợi ích.
V. Phẩm Thiêu
Cháy
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn
ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi
một vị Thiên, sau khi đêm đã
gần mãn, với dung sắc thù thắng chói
sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế
Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi đứng một bên. Ðứng một
bên, vị Thiên ấy nói lên bài
kệ này trước mặt Thế Tôn:
I. Thiêu Cháy (Biệt Tạp
5.4, Ðại 2,403) (S.i,31)
Trong ngôi nhà thiêu
cháy,
Vật dụng đem ra ngoài,
Vật ấy có lợi ích,
Không phải vật bị
thiêu.
Cũng vậy trong đời
này,
Bị già chết thiêu cháy,
Hãy đem ra, bằng thí,
Vật thí, khéo đem
ra.
Có thí, có lạc
quả,
Không thí, không như
vậy.
Kẻ trộm, vua cướp đoạt,
Lửa thiêu đốt hủy
hoại,
Khi giờ cuối cùng đến,
Bỏ thân, bỏ sở hữu.
Kẻ trí, hiểu biết vậy,
Thọ dụng và bố thí,
Thí xong, thọ dụng xong,
Theo lực hành động
ấy,
Không bị ai chỉ trích,
Vị ấy được sanh
Thiên.
II. Cho Gì? (Tạp 36.6 Vân
hà đại đắc, Ðại 2,261b) (Biệt
Tạp 8.4, Ðại 2,526b) (S.i,32)
Cho gì là cho lực?
Cho gì là cho sắc?
Cho gì là cho lạc?
Cho gì là cho mắt?
Cho gì cho tất cả?
Xin đáp điều con hỏi?
(Thế Tôn):
Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả,
Ai giảng dạy Chánh pháp,
Vị ấy cho bất tử.
III. Ðồ Ăn (S.i,32)
Trời, Người, cả
hai loài,
Ðều ưa thích ăn
uống,
Vị Dạ-xoa tên gì,
Lại không thích ăn
uống?
(Thế Tôn):
Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món
ăn ấy,
Ðời này và đời
sau.
Vậy hãy ngừa xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Hữu tình vững an trú,
Công đức trong đời
sau.
IV. Một Căn Rễ (S.i,32)
Một rễ, hai phương
diện,
Ba uế, năm môi trường,
Biển lớn, mười hai họa,
Vực xoáy bậc Thánh
siêu.
V. Bậc Hoàn Toàn (S.i,33)
Bậc viên mãn toàn
diện,
Thấy được nghĩa
bí huyền,
Ban phát chân trí tuệ,
Thoát ly khỏi dục tạng,
Thấy được bậc
toàn trí,
Bậc Thiện tuệ trí giác.
Vị Ðại Thánh dấn
bước,
Trên con đường Thánh
đạo.
VI. Thiên Nữ (S.i,33)
Thiên nữ đoàn
tụ hội,
Ngạ quỷ chúng tới lui,
Rừng ấy danh rừng si,
Làm sao có lối thoát?
(Thế Tôn):
Ðường ấy
tên chơn trực,
Phương ấy danh vô
úy,
Cỗ xe gọi vô thanh,
Với pháp luân khéo
ráp,
Tàm là dàn xe dựa,
Niệm là trướng màn
xe,
Ta nói vị đánh
xe,
Tức là chơn diệu pháp,
Và chính chánh tri kiến,
Mau chóng đi tiền phong.
Không kể nam hay nữ,
Ðều dùng cỗ xe ấy.
Chính nhờ cỗ xe ấy,
Hướng tiến đến Niết-bàn.
VII. Trồng Rừng (S.i,33)
Những ai ngày lẫn
đêm,
Công đức luôn tăng
trưởng,
Trú pháp, cụ túc
giới,
Kẻ nào sanh thiên giới?
Ai trồng vườn, trồng
rừng,
Ai dựng xây cầu cống,
Ðào giếng, cho nước
uống,
Những ai cho nhà cửa,
Những vị ấy ngày
đêm,
Công đức luôn tăng
trưởng,
Trú pháp, cụ túc
giới,
Những vị ấy sanh Thiên.
VIII. Kỳ Viên (S.i,33)
Ðây là rừng
Kỳ Viên.
Chỗ trú xứ Thánh chúng,
Chỗ ở đấng Pháp
Vương,
Khiến tâm con hoan hỷ.
Nghiệp minh và tâm pháp,
Giới và tối thắng
mạng,
Chính những diệu pháp
ấy,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải vì dòng
họ,
Không phải vì tài
sản.
Do vậy bậc Hiền trí,
Thấy lợi ích chính
mình,
Chánh giác sát tâm
pháp,
Như vậy được thanh
tịnh.
Như ngài Xá-lợi-phất,
Tuệ giới và tịch tịnh,
Tỷ-kheo đến bờ giác,
Ở đây là tối thượng.
IX. Xan Tham (S.i,34)
Ở đời kẻ xan tham,
Keo kiết hay khước từ,
Tạo nên những chướng
ngại,
Ngăn kẻ khác bố
thí,
Ðời này và đời
sau,
Quả báo họ là gì?
Chúng con đến tại đây,
Chính muốn hỏi Thế Tôn,
Chúng con muốn được
biết,
Thế Tôn đáp thế nào?
(Thế Tôn):
Ở đời kẻ xan tham,
Keo kiết hay khước từ,
Tạo nên những chướng
ngại,
Ngăn kẻ khác bố
thí,
Bị tái sanh địa
ngục,
Bàng sanh, Dạ-ma giới.
Nếu được sanh làm
người,
Sanh gia đình nghèo
khó,
Y, thực, dục, hỷ lạc,
Họ được rất khó
khăn.
Ðiều kẻ ngu ước vọng,
Họ không thâu hoạch được,
Quả hiện tại là vậy,
Ðời sau sanh ác thú.
(Vị Thiên):
Nhờ những điều
Ngài nói,
Chúng con được hiểu
vậy,
Tôn giả Gotama,
Con xin hỏi câu khác.
Ở đây được thân
người,
Từ tốn không xan tham,
Tin Phật và Chánh pháp,
Cùng tôn trọng chúng
Tăng,
Ðời này và đời
sau,
Quả báo họ là gì?
Chúng con đến tại đây,
Chính muốn hỏi Thế Tôn,
Chúng con muốn được
biết,
Thế Tôn đáp thế nào?
(Thế Tôn):
Ở đây được
thân người,
Từ tốn không xan tham,
Tin Phật và Chánh pháp,
Cùng tôn trọng chúng
Tăng,
Họ chói sáng chư Thiên,
Tại đấy họ tái
sanh.
Nếu họ sanh làm người,
Họ sanh nhà phú gia,
Y, thực, dục, hỷ lạc,
Họ được không khó
khăn,
Như các Tự tại thiên,
Hân hoan được thọ hưởng,
Giữa vật dụng tài
sản,
Ðược người khác
quy tụ,
Quả hiện tại là vậy,
Ðời sau sanh Thiên giới.
X. Thợ Ðồ Gốm (S.i,35)
(Tạp 22.10 Vô phiền thiên, Ðại 2,159b) (Biệt
Tạp, 9.29, Ðại 2,442b)
Ðược sanh Vô
phiền thiên,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và
sân,
Vượt qua đời triền phược.
Vượt bùn, họ là ai,
Khéo vượt lệnh thần
chết,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên?
Họ là Upaka,
Với Pukkusàti,
Hợp thành là ba vị,
Và Phalaganda,
Lại thêm Bhaddiya,
Với Khandadeva,
Và Bàhuraggi,
Cùng với Pingiya,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.
(Thế Tôn):
Người nói điều
tốt lành,
Về bảy Tỷ-kheo ấy,
Họ thoát ly, đoạn trừ,
Các cạm bẫy Ma vương,
Pháp họ biết, của ai,
Ðoạn diệt hữu kiết sử?
(Ghatìkàra):
Không ai ngoài Thế Tôn,
Chính thật giáo lý Ngài,
Họ biết pháp của Ngài,
Ðoạn được hữu
kiết sử.
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt,
không dư,
Họ học được pháp ấy,
Ở đây từ nơi Ngài.
Nhờ vậy họ đoạn trừ,
Hữu kiết sử trói buộc.
(Thế Tôn):
Lời nói người
thâm sâu,
Khó biết, khó chứng
ngộ,
Pháp Ông biết của ai,
Sao Ông không nói được?
(Ghatìkàra):
Thuở xưa, con thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và con được tên
gọi,
Là Ghatìkàra.
Chính con lo nuôi dưỡng,
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Con đệ tử tại gia.
Con viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật,
Thuở xưa con đồng
hương,
Cũng là bạn của
họ,
Do vậy con biết họ,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và
sân,
Vượt qua đời triền phược.
(Thế Tôn):
Vậy này Bhaggava,
Chính như Ông vừa
nói,
Thuở xưa, Ông thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và Ông được
tên gọi,
Là Ghatìkàra.
Chính Ông lo nuôi dưỡng,
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Ông đệ tử tại gia.
Ông viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật.
Thuở xưa Ông đồng
hương,
Cũng là bạn của
Ta,
Như vậy là hội ngộ,
Giữa những bạn thời
xưa,
Cả hai khéo tu tập,
Mang thân này tối hậu.
VI. Phẩm Già
I. Già (S.i,36)
-- Vật gì tốt
đến già?
Vật gì tốt kiên
trú?
Vật gì vật báu
người?
Vật gì cướp khó
đoạt?
-- Giới là tốt đến
già,
Tín là tốt kiên
trú,
Tuệ, vật báu loài Người,
Công đức, cướp
khó đoạt.
II. Không Già
-- Vật gì tốt
không già?
Vật gì tốt trường
cửu?
Vật gì vật báu
người?
Vật gì cướp không
đoạt?
-- Giới là tốt không
già,
Tín là tốt trường
cửu,
Tuệ, vật báu loài Người,
Công đức, cướp
không đoạt.
III. Bạn
-- Ai bạn kẻ
đi đường?
Ai bạn người ở nhà?
Ai bạn khi cần thiết?
Ai bạn cho đời sau?
Bạn đường, bạn
đi đường,
-- Bạn ở nhà là
mẹ,
Bạn bè khi cần thiết,
Mới là bạn thường
xuyên,
Công đức tự mình
làm,
Là bạn cho đời sau.
IV. Cơ Sở
-- Vật gì, cơ sở
người?
Vật gì, bạn tối
thượng (ở đời)?
Hữu tình gì trì
mạng?
Y cứ vào địa đại?
-- Con là cơ sở người,
Vợ là bạn tối thượng,
Thần mưa là trì
mạng,
Y cứ vào địa đại.
V. Sanh Nhân
-- Cái gì sanh thành
người?
Cái gì luôn dong ruỗi?
Cái gì chịu luân
hồi?
Cái gì người sợ
hãi?
-- Ái dục sanh thành
người,
Chính tâm luôn dong ruỗi,
Chúng sanh chịu luân hồi,
Ðau khổ, người sợ
hãi.
VI. Sanh Nhân
-- Cái gì sanh thành
người?
Cái gì luôn dong ruỗi?
Cái gì chịu luân
hồi?
Vì đâu, không giải
thoát?
-- Ái dục sanh thành
người,
Chính tâm luôn rong ruỗi,
Chúng sanh chịu luân hồi,
Vì khổ, không giải
thoát.
VII. Sanh Nhân
-- Cái gì sanh thành
người?
Cái gì luôn dong ruỗi?
Cái gì chịu luân
hồi?
Cái gì người nương
tựa?
-- Ái dục sanh thành
người,
Chính tâm luôn dong ruỗi,
Chúng sanh chịu luân hồi,
Chính nghiệp, người nương
tựa.
VIII. Phi Ðạo
-- Cái gì gọi phi đạo?
Cái gì diệt ngày đêm?
Cái gì uế Phạm hạnh?
Cái gì tắm không
nước?
-- Tham dục gọi phi đạo,
Tuổi tác diệt ngày đêm,
Nữ nhân uế Phạm hạnh,
Khiến loài Người hệ lụy,
Khổ hạnh và Phạm hạnh,
Là tắm không cần
nước.
IX. Người Bạn
-- Cái gì làm
người bạn?
Cái gì giáo hóa
người?
Cái gì người ái
lạc?
Giải thoát mọi khổ đau?
-- Tín thành làm bạn
người,
Trí tuệ giáo hóa người,
Người ái lạc Niết-bàn,
Giải thoát mọi khổ đau.
X. Người Thi Sĩ
-- Vật gì nhân
kệ tụng?
Vật gì làm tự
cú?
Vật gì kệ y cứ?
Vật gì kệ an trú?
-- Âm vận nhân kệ tụng,
Văn tự làm tự
cú,
Kệ ý cứ đề danh,
Kệ an trú thi nhân.
VII. Phẩm
Thắng (S.i,39)
I. Danh (S.i,39)
-- Vật gì thắng
tất cả?
Vật gì không số
hơn?
Và có một pháp
nào,
Mọi vật đều tùy thuộc?
-- Danh vượt thắng tất
cả,
Danh không số nào hơn,
Chính danh là một pháp,
Mọi vật đều tùy thuộc.
II. Tâm (S.i,39)
-- Vật gì dắt
dẫn đời?
Vật gì tự não
hại?
Và có một pháp
nào,
Mọi vật đều tùy thuộc?
-- Chính tâm dắt dẫn
đời,
Chính tâm tự não
hại,
Chính tâm là một
pháp,
Mọi vật đều tùy thuộc.
III. Khát Ái (S.i,39)
-- Vật gì dẫn
dắt đời?
Vật gì tự não
hại?
Và có một pháp
nào,
Mọi vật đều tùy thuộc?
-- Chính ái là một
đời,
Chính ái tự não
hại,
Chính ái là một
pháp,
Mọi vật đều tùy thuộc.
IV. Kiết Sử (S.i,39)
-- Vật gì trói
buộc đời?
Vật gì dẫn hành
đời?
Do đoạn trừ pháp
gì,
Mới được gọi Niết-bàn?
-- Chính hỷ trói buộc
đời,
Tầm cầu dẫn hành
đời,
Do đoạn trừ khát
ái,
Mới được gọi Niết-bàn.
V. Triền Phược (S.i,39)
-- Vật gì triền phược
đời?
Vật gì dẫn hành
đời?
Do đoạn trừ pháp
gì,
Mọi triền phược đoạn
diệt?
-- Chính hỷ triền phược đời,
Tầm cầu dẫn hành
đời,
Do đoạn trừ khát
ái,
Mọi triền phược đoạn
diệt.
VI. Bị Áp Ðảo (S.i,40)
-- Vật gì áp
đảo đời?
Vật gì bao phủ đời?
Tên gì bắn trúng
đời?
Bởi gì thường huân
tập?
-- Sự chết áp đảo
đời,
Già nua bao phủ đời,
Tên ái bắn trúng
đời,
Bởi dục, thường huân
tập.
VII. Bị Treo Cột (S.i,40)
-- Vật gì treo cột
đời?
Vật gì bao phủ đời?
Vật gì đóng kín
đời?
Trên gì đời an trú?
-- Khát ái treo cột đời,
Già nua bao phủ đời,
Sự chết đóng kín
đời,
Trên khổ, đời an trú.
VIII. Bị Ðóng Kín
(S.i,40)
-- Vật gì đóng
kín đời?
Trên gì đời an trú?
Vật gì treo cột đời?
Vật gì bao phủ đời?
-- Sự chết đóng kín
đời,
Trên khổ, đời an trú,
Khát ái treo cột đời,
Già nua bao phủ đời.
IX. Ước Muốn (S.i,40)
-- Vật gì trói
buộc đời?
Ðiều phục gì được
thoát?
Vật gì được
đoạn trừ,
Khiến mọi phược đoạn
tận?
-- Ước muốn trói buộc
đời,
Ðiều phục dục được
thoát,
Ước muốn được
đoạn trừ,
Mọi triền phược đoạn
tận.
X. Ðời (Thế gian) (S.i,41)
-- Trên gì thế gian
sanh?
Trên gì được
giao tiếp?
Thế gian chấp trước gì?
Trên gì đời khổ
não?
-- Trên sáu, thế gian sanh,
Trên sáu, được
giao tiếp,
Thế gian chấp trước sáu,
Trên sáu, đời khổ
não.
VIII. Phẩm
Ðoạn (S.i,41)
... Ðứng một bên, vị
Thiên nhân ấy nói lên bài kệ với
Thế Tôn:
I. Ðoạn Sát (S.i,41)
Sát vật gì được
lạc?
Sát vật gì không
sầu?
Có một pháp loại
gì,
Ngài tán đồng
sát hại,
Tôn giả Gotama?
(Thế Tôn):
Sát phẫn nộ được
lạc,
Sát phẫn nộ không
sầu,
Phẫn nộ với độc
căn,
Với vị ngọt tối thượng,
Pháp ấy, bậc Thánh
Hiền,
Tán đồng sự sát
hại.
Sát pháp ấy không
sầu,
Này (Hiền giả) Thiên nhân.
II. Cỗ Xe (S.i,41)
-- Cỗ xe hiện tướng gì?
Ngọn lửa hiện tướng gì?
Vương quốc hiện tướng
gì?
Phụ nữ hiện tướng
gì?
-- Cờ hiện tướng cỗ xe,
Khói hiện tướng ngọn lửa,
Vua hiện tướng vương
quốc,
Chồng hiện tướng nữ
nhân.
III. Tài Sản (S.i,42)
-- Tài sản gì
ở đời,
Ðối người là
tối thượng?
Sự gì khéo tu trì,
Ðưa đến chơn an lạc?
Vật gì ngọt tối thượng,
Trong tất cả vị ngọt?
Sống cuộc sống thế nào,
Ðược gọi sống tối
thượng?
-- Lòng tin ở đời
này,
Là tài sản tối
thượng.
Chánh pháp khéo tu trì,
Ðưa đến chơn an lạc.
Sự thật ngọt tối thượng,
Trong tất cả vị ngọt.
Sống cuộc sống trí
tuệ,
Ðược gọi sống tối
thượng.
IV. Mưa (S.i,42)
Vật gì được
mọc lên,
Là mọc lên tối thượng?
Vật gì được
rơi xuống,
Là rơi xuống tối
thượng?
Vật gì thường bộ
hành?
Vật gì thuyết tối thượng?
(Một Thiên nhân):
Hột giống được
mọc lên,
Là mọc lên tối thượng.
Cơn mưa được rơi
xuống,
Là rơi xuống tối
thượng.
Con bò thường bộ hành,
Con trai thuyết tối thượng.
(Thế Tôn):
Huệ minh được mọc
lên,
Là mọc lên tối thượng.
Vô minh được rơi
xuống,
Là rơi xuống tối
thượng.
Tăng-già thường bộ
hành,
Ðức Phật thuyết tối
thượng.
V. Khủng Bố (S.i,42)
Vì sao ở đời
này,
Rất nhiều người sợ hãi,
Dầu con đường đề
cập,
Dưới hình thức sai
biệt?
Con hỏi Gotama,
Bậc trí tuệ sáng suốt,
Phải an trú chỗ nào,
Khỏi sợ hãi đời
sau?
(Thế Tôn):
Hãy chánh trú
lời, ý,
Thân nghiệp chớ làm ác.
Nếu an trú trong nhà,
Với tài sản dồi dào,
Hãy tín tâm, nhu hòa,
Chia tài sản, hòa nhã.
An trú bốn pháp này,
Không sợ hãi đời
sau.
VI. Không Già (S.i,43)
-- Ai già, ai không
già?
Thế nào gọi phi đạo?
Vật gì chướng ngại
pháp?
Vật gì đêm ngày
diệt?
Vật gì uế Phạm hạnh?
Vật gì tắm không
nước?
Ðời bao nhiêu lỗ trống,
Trên ấy, tâm không
trú?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Mong biết câu trả lời!
-- Sắc hữu tình bị
già,
Danh tánh lại không già,
Tham dục gọi phi đạo,
Tham ái, chướng ngại
pháp.
Tuổi tác đêm, ngày
diệt,
Nữ nhân uế Phạm hạnh,
Ðắm trước trong uế
này,
Là toàn thể chúng sanh.
Khổ hạnh và Phạm hạnh,
Là tắm không cần
nước,
Sáu lỗ trống ở đời,
Trên ấy, tâm không
trú,
Biếng nhác và phóng
dật,
Uể oải, không tự chế,
Thụy miên và hôn
trầm,
Cả sáu lỗ trống này,
Cần ly khai tất cả.
VII. Tôn Chủ (S.i,43)
-- Vật gì chủ
ở đời?
Hàng hóa gì tối
thượng?
Vật gì làm rỉ
sét,
Lưỡi kiếm ở trên đời?
Vật gì ở đời
này,
Tác thành cõi địa
ngục?
Ai đem đi, bị chận?
Ai đem đi, được
ưa?
Ai thường xuyên đi
lại,
Ðược kẻ trí
hoan hỷ?
-- Thế lực chủ ở đời,
Nữ nhân, vật tối
thượng.
Phẫn nộ làm rỉ sét,
Lưỡi kiếm ở trên đời.
Kẻ trộm ở đời
này,
Tác thành cõi địa
ngục.
Trộm đem đi, bị
chận,
Sa-môn đem, được
ưa,
Sa-môn thường đi lại,
Ðược kẻ trí
hoan hỷ.
VIII. Dục (S.i,44)
-- Nghĩ lợi, không
cho ai,
Con người từ bỏ gì?
Thiện gì nên thốt ra?
Ác gì nên ngăn
chận?
-- Con người không cho mình,
Không nên từ bỏ
mình,
Lời thiện, nên thốt ra,
Lời ác, nên ngăn
chận.
IX. Lương Thực (S.i,44)
-- Cái gì cột
lương thực?
Cái gì hút tài
sản?
Cái gì lôi cuốn
người?
Ở đời, khó bỏ gì?
Cái gì buộc phàm
nhân,
Như chim bị bẫy sập?
-- Lòng tin cột lương
thực,
Thần tài hút tài
sản.
Lòng muốn lôi cuốn
người,
Ở đời, muốn (icchà)
khó bỏ.
Ham muốn buộc phàm nhân,
Như chim bị bẫy sập.
X. Chớp (S.i,44)
-- Vật gì chiếu sáng
đời?
Vật gì thức tỉnh
đời?
Ai cọng nghiệp với người?
Cử chỉ chúng là
gì?
Ai nuôi kẻ nhác, siêng,
Như mẹ nuôi con cái?
Hữu tình gì trì
mạng,
Y cứ vào địa đại?
-- Trí tuệ chiếu sáng đời,
Chánh niệm thức tỉnh
đời,
Bò cọng nghiệp với người,
Ðường cày là
con đường.
Mưa nuôi kẻ nhác,
siêng,
Như mẹ nuôi con cái.
Mưa trì mạng chúng
sanh,
Y cứ vào địa đại.
XI. Không Tranh Luận (S.i,44)
-- Ai không tranh luận
đời?
Ai sống không hoại diệt?
Ai rõ ham muốn đời?
Ai thường xuyên tự
tại?
Ai an trú như vậy,
Cha, mẹ, anh đảnh lễ?
Ai dầu có hạ sanh,
Ðược Sát-lỵ tôn
kính?
-- Sa-môn không tranh đời,
Sa-môn sống không diệt,
Sa-môn rõ dục vọng,
Sa-môn thường tự tại,
Sa-môn trú như vậy,
Cha, mẹ, anh kính lễ.
Sa-môn dầu hạ sanh,
Ðược Sát-lỵ tôn
kính.
-ooOoo-
Chương
kế
|