Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [Trang chủ]
Kinh
Mật Hoàn
(Madhupindikh
Sutta)
Hòa thượng Thích Chơn Thiện
I
. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
- Phi hữu: Abhava (Non becoming; excellent becoming): * Có quan điểm thì cho rằng cảnh giới thật thì ở ngoài cõi Hữu, khác hẳn cõi Hữu, phủ nhận cõi Hữu nên gọi là Phi hữu. - Tham tùy miên: Ràganusaya (A propensity to attachment): Khuynh hướng tham trước; xu hướng tham trước; tập khí tham trước. - Sân tùy miên: Patighanusaya (A propensity to repugnance): khuynh hướng ghê tởm, chán ghét; xu hướng ghê tởm, chán ghét; tập khí sân hận trong tâm. - Kiến tùy miên: Ditthanusaya (A propensity to views): Khuynh hướng nắm giữ các kiến giải, quan điểm; xu hướng nắm giữ các kiến giải, quan điểm; tập khí nắm giữ quan điểm trong tâm. - Nghi tùy miên: Vicikicchànusaya (A propensity to perplexity): Xu hướng nghi ngờ, do dự, bối rối trước sự vật; tập khí do dự, nghi ngờ trong tâm. - Mạn tùy miên: Mànànusaya (A propensity to pride): Xu hướng tự kiêu, tự hãnh; tập khí tự hãnh, tự kiêu, tập khí ngã mạn. - Hữu tham tùy miên: Bhavaràgànusaya (A propensity to attachment to becoming): Xu hướng tham trước cõi Hữu; tập khí tham trước cõi Hữu ở trong tâm. - Vô minh tùy miên: Avijjànusaya (A propensity to ignorance): Tập quán vô minh; tập quán chấp thủ ngã; tập khí chấp thủ ngã khiến không nhận thức được sự thật Duyên khởi, Tứ Thánh đế. 1. Kẻ du hành dòng họ Thích Ca tại vườn Đại Lâm, Kapilavatthu, tìm hiểu quan điểm, chủ thuyết của Đức Thế Tôn, hỏi rằng: "Sa môn Gotama có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì". Câu hỏi hàm nghĩa đợi chờ câu trả lời vế triết lý nhân sinh và vũ trụ. Nhưng Sakka, kẻ du hành, lại nghe Đức Thế Tôn dạy: "... Không có tranh luận với một ai ở đời; các tưởng sẽ không ám ảnh, vị Bà la môn sống không bị dục triền phược, không có nghi ngờ, do dự, với mọi hối quá đoạn diệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu". Sakka thất vọng, lắc đầu, bỏ đi do không nắm được nghĩa lý của lời dạy. Tiếp đó, Đức Thế Tôn đã cắt nghĩa cho các Tỷ kheo rằng: "Do bất cứ duyên gì, một số hý luận ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thì như vậy là đoạn tận tham tùy miên, đoạn tận sân tùy miên, đoạn tận kiến tùy miên, đoạn tận nghi tùy miên, đoạn tận mạn tùy miên, đoạn tận hữu tham tùy miên, đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây, những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn". Lời cắt nghĩa này vẫn còn hàm ẩn một số nội dung chưa khai tỏ, vẫn còn vắn tắt. a) Tôn giả Đại Ca Chiên Diên (Mahàkaccàna) diễn rộng lời dạy vắn tắt trên như sau: Lời giảng rộng này đã được Thế Tôn tán thán. b) Tôn giả Ànanda, đang hầu quạt Đức Thế Tôn, rất hân hoan nghe từng lời diễn rộng. Tôn giả, bậc đa văn đệ nhất, tán thán lời giảng rộng của Tôn giả Ca Chiên Diên là những lời Pháp ngọt ngào như bánh mật. Do vậy, Đức Thế Tôn đặt tên kinh số 18 là "Pháp Môn Bánh Mật (Mật Hoàn)". 1. Từ xu hướng tư tưởng, triết lý của câu hỏi của chàng Sakka sẽ kéo theo các câu trả lời chuyên chở nội dung tương tự, một nội dung mà sẽ đẩy con người vào thế giới ngã tướng đầy vọng tưởng, đầy ắp tham, sân, si, ngũ cái, đầy kiến thủ về Thường, Đoạn (Hữu và Phi hữu). Đức Thế Tôn đã kéo Sakka và nhân thế ra khỏi thế giới ấy bằng câu lời đáp: "... không có tranh luận với một ai ở đời..." bao hàm hai ý chính. b) Rời khỏi thế giới của hý luận, trở về theo dõi và kiểm soát tâm trước xúc, thọ, tưởng, tư để đoạn tận các tùy miên "tham, sân, si, kiến, mạn, vô minh". Đây là chủ trương và thái độ giáo dục của Đức Thế Tôn. 3. "Pháp môn bánh mật" chỉ là pháp môn hộ trì các căn, nuôi dưỡng giác tỉnh, dập tắt tham ái khởi lên từ các căn. Pháp môn ấy nghe rất giản dị, nhưng rất tinh yếu hàm ẩn điểm tinh yếu nhất của công phu giải thoát. Đây cũng là âm thanh "đại sư tử hống". -ooOoo- (Nguyệt san Giác
Ngộ, số 79, tháng 10-2002)
|
Source = BuddhaSasana
[Trích giảng Trung Bộ] last updated: 17-02-2003