Bài số :  76

Thơ Đại Thần Quan Bạch đi tu ở chùa Hosshôji

法性寺入道前関白太政大臣     

 

a) Nguyên văn:

わたの原

漕ぎ出でて見れば

ひさかたの

雲居にまがふ

沖つ白波

b) Phiên âm:

Wata no hara

Kogi idete mireba

Hisakata no

Kumoi ni magafu (gô)

Oki tsu shiranami  

c) Diễn ý:

Chèo thuyền ra biển mênh mông,

Nhìn ra bờ bên kia xa vời.

Ngỡ là giải mây trắng trôi,

Đâu ngờ chỉ là những ngọn sóng ngoài khơi dậy cao lên,

d) Dịch thơ:

Chèo ra biển mênh mông,
Bờ bên kia mịt mùng.
Tưởng mây đùn trắng lớp,
Nào hay sóng vạn trùng.

(ngũ ngôn) 

Biển mênh mông, bờ mịt mùng,
Mây giăng? Sóng bủa? Hình dung khó lường.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ:. Shika-shuu (Từ Hoa Tập), tạp thi phần hạ, bài 382.

Tác Giả:Quan Tiền Thái Chính Đại Thần, từng lãnh chức Quan Bạch sau ra tu ở chùa Pháp Tính vốn tên là Fujiwara noTadamichi (Đằng Nguyên, Trung Thông, 1097-1164) là người đã hứa mà không giữ lời để bị oán trách trong bài 75. Ông là con của quan Nhiếp Chính Quan Bạch Fujiwara no Tadasane (Đằng Nguyên, Trung Thực).Hai mươi lăm tuổi đã nhậm chức Quan Bạch. Trong vòng 27 năm, ông 3 lần làm Quan Bạch, 2 lần làm Thái Chính Đại Thần và 3 lần làm Nhiếp Chính. Sau cuộc loạn Hôgen, ông lật đổ em là Yorinaga (Lại Trường), người vẫn đối lập với ông từ trước, rồi đi tu, sống ẩn cư.  

 

Fujiwara noTadamichi

Lời bình của Shika-shuu cho biết bài này làm ra trong hội thơ mừng Thiên Hoàng Sutoku (Sùng Đức) đăng quang, với chủ đề “Hải Thượng Viễn Vọng”.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Cảnh sóng bạc ngoài trùng khơi khi nhìn ra biển bao la.

Wata no hara chỉ mặt biển bao la như giãi bình nguyên rộng lớn, đáp được ý “hải thượng”, còn mấy câu tiếp sau đã thu tóm hết hình ảnh “viễn vọng”. Hisakata no là một cụm từ giáo đầu cố định dùng để ghép với các khái niệm như mây, mặt trời, mặt trăng,, ánh sáng, tầng không...làm tăng sự rộng rãi hùng vĩ của phong cảnh, nơi đây bầu trời mặt biển như nhập làm một, mây (kumoi) và sóng bạc (shiranami) ở chân trời không sao phân biệt được.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Hải Thượng Cô Chu.
海 上 孤 舟

 

Hải thượng mang mang bất kiến biên,
海 上 茫 茫 不 見 辺

Cô phàm khinh đãng thủy thiên gian.
孤 帆 軽 蕩 水 天 間

Y hy tự tại bạch vân lý,
依 稀 自 在 白 雲 里

Hải diện ngân ba thủy tiếp thiên.
海 面 銀 浪 水 接 天

Anh dịch:

In fisher’s barque I onward glide

O’er the broad expanse of ocean’s tide,

And towards th’horizon when I turn

My glance I scarcely can discern

Where the white-tipped billows end,

That with the cloud-horizon blend.

(Dickins)

O'er the wide sea plain,

As I row and look around,

It appears to me

That the white waves, far away,

Are the ever shining sky.

(Mac Cauley)

Trong năm Hôgen (1156) có cuộc nội loạn do sự đối lập giữa cánh Thái Thượng Hoàng Sutoku (cùng cánh với Yorinaga và tập đoàn Minamoto) và cánh Thiên hoàng Go-Shirakawa (với Tadamichi và tập đoàn Taira). Cánh Sutoku thất bại và thái thượng hoàng bị đày ra đất Sanuki (tỉnh Kagawa, vùng bắc đông đảo Shikoku bây giờ). 

 

 





Bài số :  76

Thơ Đại Thần Quan Bạch đi tu ở chùa Hosshôji

法性寺入道前関白太政大臣     

 

a) Nguyên văn:

わたの原

漕ぎ出でて見れば

ひさかたの

雲居にまがふ

沖つ白波

b) Phiên âm:

Wata no hara

Kogi idete mireba

Hisakata no

Kumoi ni magafu (gô)

Oki tsu shiranami  

c) Diễn ý:

Chèo thuyền ra biển mênh mông,

Nhìn ra bờ bên kia xa vời.

Ngỡ là giải mây trắng trôi,

Đâu ngờ chỉ là những ngọn sóng ngoài khơi dậy cao lên,

d) Dịch thơ:

Chèo ra biển mênh mông,
Bờ bên kia mịt mùng.
Tưởng mây đùn trắng lớp,
Nào hay sóng vạn trùng.

(ngũ ngôn) 

Biển mênh mông, bờ mịt mùng,
Mây giăng? Sóng bủa? Hình dung khó lường.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ:. Shika-shuu (Từ Hoa Tập), tạp thi phần hạ, bài 382.

Tác Giả:Quan Tiền Thái Chính Đại Thần, từng lãnh chức Quan Bạch sau ra tu ở chùa Pháp Tính vốn tên là Fujiwara noTadamichi (Đằng Nguyên, Trung Thông, 1097-1164) là người đã hứa mà không giữ lời để bị oán trách trong bài 75. Ông là con của quan Nhiếp Chính Quan Bạch Fujiwara no Tadasane (Đằng Nguyên, Trung Thực).Hai mươi lăm tuổi đã nhậm chức Quan Bạch. Trong vòng 27 năm, ông 3 lần làm Quan Bạch, 2 lần làm Thái Chính Đại Thần và 3 lần làm Nhiếp Chính. Sau cuộc loạn Hôgen, ông lật đổ em là Yorinaga (Lại Trường), người vẫn đối lập với ông từ trước, rồi đi tu, sống ẩn cư.  

 

Fujiwara noTadamichi

Lời bình của Shika-shuu cho biết bài này làm ra trong hội thơ mừng Thiên Hoàng Sutoku (Sùng Đức) đăng quang, với chủ đề “Hải Thượng Viễn Vọng”.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Cảnh sóng bạc ngoài trùng khơi khi nhìn ra biển bao la.

Wata no hara chỉ mặt biển bao la như giãi bình nguyên rộng lớn, đáp được ý “hải thượng”, còn mấy câu tiếp sau đã thu tóm hết hình ảnh “viễn vọng”. Hisakata no là một cụm từ giáo đầu cố định dùng để ghép với các khái niệm như mây, mặt trời, mặt trăng,, ánh sáng, tầng không...làm tăng sự rộng rãi hùng vĩ của phong cảnh, nơi đây bầu trời mặt biển như nhập làm một, mây (kumoi) và sóng bạc (shiranami) ở chân trời không sao phân biệt được.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Hải Thượng Cô Chu.
海 上 孤 舟

 

Hải thượng mang mang bất kiến biên,
海 上 茫 茫 不 見 辺

Cô phàm khinh đãng thủy thiên gian.
孤 帆 軽 蕩 水 天 間

Y hy tự tại bạch vân lý,
依 稀 自 在 白 雲 里

Hải diện ngân ba thủy tiếp thiên.
海 面 銀 浪 水 接 天

Anh dịch:

In fisher’s barque I onward glide

O’er the broad expanse of ocean’s tide,

And towards th’horizon when I turn

My glance I scarcely can discern

Where the white-tipped billows end,

That with the cloud-horizon blend.

(Dickins)

O'er the wide sea plain,

As I row and look around,

It appears to me

That the white waves, far away,

Are the ever shining sky.

(Mac Cauley)

Trong năm Hôgen (1156) có cuộc nội loạn do sự đối lập giữa cánh Thái Thượng Hoàng Sutoku (cùng cánh với Yorinaga và tập đoàn Minamoto) và cánh Thiên hoàng Go-Shirakawa (với Tadamichi và tập đoàn Taira). Cánh Sutoku thất bại và thái thượng hoàng bị đày ra đất Sanuki (tỉnh Kagawa, vùng bắc đông đảo Shikoku bây giờ).