|
e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất Xứ:.
Shika-shuu
(Từ Hoa Tập), tạp thi phần hạ,
bài 382.
Tác Giả:Quan
Tiền Thái Chính Đại Thần,
từng lãnh chức Quan Bạch sau ra tu ở
chùa Pháp Tính vốn tên là
Fujiwara noTadamichi (Đằng Nguyên, Trung
Thông, 1097-1164) là người đã
hứa mà không giữ lời để
bị oán trách trong bài 75. Ông
là con của quan Nhiếp Chính Quan
Bạch Fujiwara no Tadasane (Đằng Nguyên,
Trung Thực).Hai mươi lăm tuổi đã
nhậm chức Quan Bạch. Trong vòng 27
năm, ông 3 lần làm Quan Bạch, 2
lần làm Thái Chính Đại
Thần và 3 lần làm Nhiếp Chính.
Sau cuộc loạn Hôgen, ông lật đổ
em là Yorinaga (Lại Trường), người
vẫn đối lập với ông từ
trước, rồi đi tu, sống ẩn
cư.
Fujiwara
noTadamichi
Lời bình của Shika-shuu
cho biết bài này làm ra trong hội
thơ mừng Thiên Hoàng Sutoku (Sùng
Đức) đăng quang, với chủ đề
“Hải Thượng Viễn Vọng”.
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Cảnh sóng bạc ngoài trùng
khơi khi nhìn ra biển bao la.
Wata no hara chỉ
mặt biển bao la như giãi bình
nguyên rộng lớn, đáp được
ý “hải thượng”, còn
mấy câu tiếp sau đã thu tóm
hết hình ảnh “viễn vọng”.
Hisakata no
là một cụm từ giáo đầu
cố định dùng để ghép
với các khái niệm như mây,
mặt trời, mặt trăng,, ánh sáng,
tầng không...làm tăng sự rộng
rãi hùng vĩ của phong cảnh, nơi
đây bầu trời mặt biển như
nhập làm một, mây (kumoi) và
sóng bạc (shiranami) ở chân trời
không sao phân biệt được.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Hải Thượng Cô
Chu. 海 上 孤 舟
Hải thượng mang mang
bất kiến biên, 海 上 茫 茫 不 見 辺
Cô phàm khinh đãng
thủy thiên gian. 孤 帆 軽 蕩 水 天 間
Y hy tự tại bạch
vân lý, 依 稀 自
在 白 雲 里
Hải diện ngân ba
thủy tiếp thiên. 海 面 銀 浪 水 接 天
|
|
Anh dịch:
In fisher’s barque I onward glide
O’er the broad expanse of ocean’s tide,
And towards th’horizon when I turn
My glance I scarcely can discern
Where the white-tipped billows end,
That with the cloud-horizon blend.
(Dickins)
O'er the wide sea plain,
As I row and look around,
It appears to me
That the white waves, far away,
Are the ever shining sky.
(Mac Cauley)
|
|
Trong năm Hôgen (1156) có
cuộc nội loạn do sự đối lập
giữa cánh Thái Thượng Hoàng
Sutoku (cùng cánh với Yorinaga và
tập đoàn Minamoto) và cánh
Thiên hoàng Go-Shirakawa (với Tadamichi và
tập đoàn Taira). Cánh Sutoku thất
bại và thái thượng hoàng
bị đày ra đất Sanuki (tỉnh
Kagawa, vùng bắc đông đảo
Shikoku bây giờ).
|
|