e) Tác
giả và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokin-shuu
(Cỏ Kim Tập), thơ luyến ái phần
3, bài 625.
Tác giả:
Mibu no Tadamine (Nhiệm Sinh Trung Lĩnh) là
người sống giữa thế kỷ thứ
9 đến đầu thế kỷ thứ
10. Ông là một trong những nhà
thơ đã soạn ra Kokin-shuu.
Thân phụ của Mibu no Tadami (Nhiệm
Sinh, Trung Kiến, tác giả bài 41).
Cũng như Ôshikôchi no Mitsune (tác
giả bài 29), tuy tài thơ cao được
xếp vào hàng Tam Thập Lục Ca
Tiên, ông chỉ là một chức
quan nhỏ, leo mãi mới tới được
hàng lục phẩm.
Từ thời Teika, có nhiều
thuyết về bài thơ này nhưng
lối giải thích “người đàn
bà oán hận đàn ông bạc
tình” là được nhiều
người chấp nhận nhất.
Con trăng hạ huyền sau ngày
16 leo lên bầu trời lúc trời đã
rạng sáng thường chứng kiến
những cuộc chia tay khi người đàn
ông đến nhà người yêu
ra về. Người Nhật xưa gọi nó
là Ariake no wakare tức là Cuộc
chia tay hừng đông lúc trăng tàn.
Thường chỉ giây phút ngắn
ngủi cô đọng tình cảm
luyến tiếc nhau của đôi trai gái.
Đây là một trong những bài
thơ vịnh tình cảm còn lưu
lại sau giây phút đó.
Mibu
no Tadamine
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Nhìn con trăng tàn chạnh
nghĩ đến mối tình đã
phôi pha nhạt nhẽo.
Trên bầu trời về sáng,
vầng trăng tàn vẫn hững hờ
chiếu giống như thái độ
lãnh đạm của người yêu
từ buổi chia tay. Nỗi cay đắng
không phải nhất thời này hãy
còn kéo dài cho đến bây
giờ, khiến người đàn bà
sống trong chuỗi ngày sầu khổ.
Qua mối tình không trọn vẹn đó,
nàng ưu tư cho số phận của
mình.
Tsurenai có
nghĩa là lãnh đạm, vô
tình. Cả vầng trăng và người
yêu đều có chung một thái
độ. Bakari...nashi
nên hiểu với nghĩa “không
gì ...hơn” “hết sức
là...”. Đặc điểm của
bài thơ này là mạch thơ
đi liên tục, không có ngắt
câu (kugire) mà chỉ dùng một
chuổi trợ từ (no, yori, bakari, wa) để
móc nối.
Tương truyền khi Thái
Thượng Hoàng Go-Toba hỏi riêng
hai nhà thơ Teika (Sadaie) và Ietaka (một
trong những người soạn Shin-Kokin-shuu)
rằng trong Bát Đại Tập, đâu
là bài thơ hay nhất thì không
hẹn mà gặp, hai ông đều
bảo là bài thơ này.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Tàn Nguyệt. 残 月
Ngưỡng vọng tàn
nguyệt quải cao không, 仰 望 残 月 挂 高 空
Nhất tự y nhân lãnh
nhược băng. 一 似 伊 人 冷 若 氷
Tự tùng biệt lai
cô độc thậm, 自 従 別 来 孤 独 甚
Tối thị hiểu khởi
bội thương tình. 最 是 暁 起 倍 傷 情
|
|
Anh dịch:
The Ariake-moonbeams will
In th’morning heaven linger still;
While I from thee – how hard the
smart –
By Akatsuki compelled, must part.
(Dickins)
Like the morning moon,
Cold, unpitying was my love.
Since that parting hour,
Nothing I dislike so much
As the breaking light of day
(Mac Cauley)
|
|
Về Mibu no Tadamine, có một
giai thoại nói đến sự nhanh trí
của ông.
Quyển Truyện vùng Đại
Hòa (Yamato Monogatari) ghi lại việc
tướng Fujiwara no Sadakuni (Đằng Nguyên
Định Quốc), người anh của
Sadakata (Định Phương, tác giả
bài 25) một đêm trời đã
khuya , say rượu, đột ngột đến
thăm nhà quan Tả Đại Thần
Fujiwara no Tokihira (Đằng Nguyên, Thì
Bình). Tokihira, người sau này sẽ
lên nắm chính quyền, tức giận
vì bị làng say khuấy phá đêm
hôm, chưa biết phải đuổi
khách thế nào. Tadamine tháp tùng
Sadakuni, mới tiến ra trước và
tạ lỗi bằng cách đọc bài
thơ Kasasagi no (bài số 6) của quan
Trung Nạp Ngôn Ôtomo no Yakamochi:
Sương đêm đã
trắng lối sang, Đêm tàn ô
thước lỡ làng cầu qua.
Tokihira thấy Tadamine nhanh trí
và dí dỏm, tha tội cho cả bọn
và còn bày tiệc khoản đãi
đến sáng.
|