Bài số 18  

Thơ đại thần Fujiwara no Toshiyuki 藤原敏行

 

a) Nguyên văn:

住みの江の

岸による波

よるさへや

夢の通ひ路

人めよくらむ

b) Phiên âm:

Suminoe no

Kishi ni yoru nami

Yoru sae ya

Yume no kayoi ji

Hitome yoku ran

c) Diễn ý:

Không giống như những ngọn sóng,

Vỗ mãi vào bờ sông Suminoe.

Người đi qua đi lại ban đêm trong mộng ấy,

Ta không làm sao gặp được,

Có phải vì người muốn tránh mắt đời dòm ngó?

d) Dịch thơ:

Người không bằng ngọn sóng,
Vỗ bờ sông Sumi.
Trong mộng không cho gặp,
Hay sợ đời thị phi?

(ngũ ngôn) 

Không bằng con sóng vỗ bờ,
Trong mộng còn tránh, hững hờ sao đang!

(lục bát)

 

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ kim tập), thơ luyến ái, phần thứ hai, bài 559.

Tác giả: Fujiwara no Toshiyuki (Đằng Nguyên Mẫn Hành, ? – 907?, cũng là một nhà quí tộc dòng dõi gia đình quyền thần Fujiwara. Vợ ông là em gái của vợ Narihira nên hai người đàn ông đi lại thân thiết. Ông cũng có chân trong nhóm 36 ca tiên.

Ban ngày dĩ nhiên không rồi. Đêm đến, vẫn chẳng có cách gì gặp người mình yêu. Đây là bài thơ nói lên nỗi cay đắng đó. Người đàn ông đi qua đi lại trước nhà (ngày xưa đàn bà chỉ ngồi nhà chờ) vì sợ tiếng đời thị phi, không đến gặp mặt nàng. Tác giả đã sáng tác bài này khi đặt mình ở vị trí một người đàn bà. Lời giải thích trong Kokin-shuu cho biết đây là bài thơ sáng tác trong một buổi bình thơ ở cung hoàng hậu của Thiên Hoàng Uda vào năm Kanpyô (Khoan Bình, 889-898).

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nỗi cay đắng không gặp được người yêu ngay cả trong giấc mộng.

Suminoe là vùng sông thuộc khu vực Sumiyoshi gần cửa biển Ôsaka bây giờ, nổi tiếng nhiều tùng (matsu) đẹp nên dễ làm liên tưởng với sự chờ đợi (待つmatsu) người tình. Ở đây, tác giả còn chơi chữ bằng cách lập đi lập lại từ よるyoru vốn có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Đêm cũng là yoru. Sóng tấp vào bờ cũng là 寄るyoru. Ngoài ra, chữ yoru đã được đặt giữa cụm từ Kishi ni yoru nami (Sóng đánh vào bờ), ở đây, được sử dụng như một jo-kotoba nghĩa là chữ giáo đầu để gây ấn tượng mạnh cho hành động đi qua đi lại trong đêm của người đàn ông như sóng vỗ liên miên.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Giang Đào Phách Ngạn.
江 濤 拍 岸

 

Giang đào phách ngạn tự dư tình,
江 濤 拍 岸 似 余 情

Tự triêu chí dạ bất khẳng đình.
自 朝 至 夜 不 肯 停

Mộng lý vãng lai hoang dã đạo,
夢 裏 往 来 荒 野 道

Vị đào nhân mục ám trung hành.
為 逃 人 目 暗 中 行

Anh dịch:

Tho’ softly as the waves do break

On Suminoye’s shore; I seek

To meet thee, love e’en in a dream,

To dread men’s curious eyes I seen.

(Dickins)

Lo! the gathered waves

On the shore of Sumi's bay!

E'en in gathered night,

When in dreams I go to thee,

I must shun the eyes of men.

(Mac Cauley)

Gặp nhau trong mộng hay yêu nhau trong mộng là một cách diễn tả từng thấy nhiều lần trong Man.yô.shuu.

Ngoài tài thơ waka, Fujiwara no Toshiyuki còn viết chữ đẹp, danh tiếng ngang hàng với Tam Bút tức bộ ba gồm Thiên Hoàng Saga (Tha Nga), cao tăng Kuukai (Không Hải) và Tachibana no Hayanari (Quất, Dật Thế). Vì viết quá đẹp nên được nhiều người nhờ chép kinh Pháp Hoa, có đến 200 bộ.

 

 



Bài số 18  

Thơ đại thần Fujiwara no Toshiyuki 藤原敏行

 

a) Nguyên văn:

住みの江の

岸による波

よるさへや

夢の通ひ路

人めよくらむ

b) Phiên âm:

Suminoe no

Kishi ni yoru nami

Yoru sae ya

Yume no kayoi ji

Hitome yoku ran

c) Diễn ý:

Không giống như những ngọn sóng,

Vỗ mãi vào bờ sông Suminoe.

Người đi qua đi lại ban đêm trong mộng ấy,

Ta không làm sao gặp được,

Có phải vì người muốn tránh mắt đời dòm ngó?

d) Dịch thơ:

Người không bằng ngọn sóng,
Vỗ bờ sông Sumi.
Trong mộng không cho gặp,
Hay sợ đời thị phi?

(ngũ ngôn) 

Không bằng con sóng vỗ bờ,
Trong mộng còn tránh, hững hờ sao đang!

(lục bát)

 

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu (Cổ kim tập), thơ luyến ái, phần thứ hai, bài 559.

Tác giả: Fujiwara no Toshiyuki (Đằng Nguyên Mẫn Hành, ? – 907?, cũng là một nhà quí tộc dòng dõi gia đình quyền thần Fujiwara. Vợ ông là em gái của vợ Narihira nên hai người đàn ông đi lại thân thiết. Ông cũng có chân trong nhóm 36 ca tiên.

Ban ngày dĩ nhiên không rồi. Đêm đến, vẫn chẳng có cách gì gặp người mình yêu. Đây là bài thơ nói lên nỗi cay đắng đó. Người đàn ông đi qua đi lại trước nhà (ngày xưa đàn bà chỉ ngồi nhà chờ) vì sợ tiếng đời thị phi, không đến gặp mặt nàng. Tác giả đã sáng tác bài này khi đặt mình ở vị trí một người đàn bà. Lời giải thích trong Kokin-shuu cho biết đây là bài thơ sáng tác trong một buổi bình thơ ở cung hoàng hậu của Thiên Hoàng Uda vào năm Kanpyô (Khoan Bình, 889-898).

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nỗi cay đắng không gặp được người yêu ngay cả trong giấc mộng.

Suminoe là vùng sông thuộc khu vực Sumiyoshi gần cửa biển Ôsaka bây giờ, nổi tiếng nhiều tùng (matsu) đẹp nên dễ làm liên tưởng với sự chờ đợi (待つmatsu) người tình. Ở đây, tác giả còn chơi chữ bằng cách lập đi lập lại từ よるyoru vốn có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Đêm cũng là yoru. Sóng tấp vào bờ cũng là 寄るyoru. Ngoài ra, chữ yoru đã được đặt giữa cụm từ Kishi ni yoru nami (Sóng đánh vào bờ), ở đây, được sử dụng như một jo-kotoba nghĩa là chữ giáo đầu để gây ấn tượng mạnh cho hành động đi qua đi lại trong đêm của người đàn ông như sóng vỗ liên miên.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Giang Đào Phách Ngạn.
江 濤 拍 岸

 

Giang đào phách ngạn tự dư tình,
江 濤 拍 岸 似 余 情

Tự triêu chí dạ bất khẳng đình.
自 朝 至 夜 不 肯 停

Mộng lý vãng lai hoang dã đạo,
夢 裏 往 来 荒 野 道

Vị đào nhân mục ám trung hành.
為 逃 人 目 暗 中 行

Anh dịch:

Tho’ softly as the waves do break

On Suminoye’s shore; I seek

To meet thee, love e’en in a dream,

To dread men’s curious eyes I seen.

(Dickins)

Lo! the gathered waves

On the shore of Sumi's bay!

E'en in gathered night,

When in dreams I go to thee,

I must shun the eyes of men.

(Mac Cauley)

Gặp nhau trong mộng hay yêu nhau trong mộng là một cách diễn tả từng thấy nhiều lần trong Man.yô.shuu.

Ngoài tài thơ waka, Fujiwara no Toshiyuki còn viết chữ đẹp, danh tiếng ngang hàng với Tam Bút tức bộ ba gồm Thiên Hoàng Saga (Tha Nga), cao tăng Kuukai (Không Hải) và Tachibana no Hayanari (Quất, Dật Thế). Vì viết quá đẹp nên được nhiều người nhờ chép kinh Pháp Hoa, có đến 200 bộ.