|
e) Tác giả
và hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Kokin-shuu
(Cổ Kim Tập), phần thơ Thu, quyển
hạ, bài 294.
Tác Giả:
Như đã nhắc ở trên, Ariwara
no Narihira là cháu Thiên Hoàng
Heizei (Bình Thành), con thân vương
Abo và em khác mẹ của quan tham nghị
bậc trung Yukihira. Giỏi thơ, được
xem là một trong sáu thi hào đương
thời (Rokkasen) và đa tình như
một Don Juan. Còn được gọi
là Zaigohuujô (Tại ngũ trung tướng)
hay Zaichuujô vì có tước võ
(trung tướng) trong ngự lâm quân.
Tên ông thường được
viết với chữ 朝臣Ason
ở cuối xác định vị trí
dòng dõi hoàng thân quốc
thích. Ason còn là chữ được
đặt sau tên một người trong
tôn thất hay ông quan tước vị
từ ngũ phẩm trở lên để
tỏ ý tôn kính.
Theo lời thích nghĩa
trong Kokin-shuu,
đây là một bài 屏風歌byôpuu-uta
tức là thơ lấy đề
tài cảnh trên bình phong trong một
buổi ca vịnh. Bức bình phong này
để ở春宮Xuân
Cung (Tôguu, còn viết là東宮),
nơi nghỉ ngơi của hoàng hậu
Nijô, vẽ theo kiểu tranh Nhật
(Yamato-e) hình cảnh lá đỏ mùa
thu trôi trên dòng sông Tatsuta. Cảnh
này đã trở thành một ước
lệ trong thi ca Nhật Bản. Thơ này
sẽ được đề vào bức
bình phong. Đây là một phong
tục có từ cuối thế kỷ thứ
9 và lan rộng vào thế kỷ thứ
10.
f)
Thưởng ngoạn và
phẩm bình:
Đề tài:
Vẻ đẹp hoa lệ của cảnh lá
thu trôi đỏ rực trên dòng
Tatsutagawa.
Tác giả hơi phóng đại
cho rằng tự đời các thần
(kamiyo) đến giờ vẫn chưa nghe nói
có cảnh nào lạ lùng như
vậy, chỉ để thậm xưng cái
đẹp hoa lệ và tươi tắn
của màu lá đỏ trôi trên
dòng sông Tatsuta. Nó có thể
làm cho độc giả bối rối,
không biết khung cảnh thực thì
đẹp đến thế nào.
Chihayaburu
(Nhiều
chuyện lạ lùng) là một
枕詞makura-kotoba
(chữ
gối đầu) để tô điểm
như một qui ước cho chữ kami
(thần) trong cụm từ kamiyo
(thời chư thần, thời xa xưa). Còn
Tatsutagawa là con sông chảy ven núi
Tatsuta ở gần cố đô Nara. Kara
kurenai
là “màu son tươi đem từ
ngoại quốc” (Kara, nhà Đường)
về. Khi so sánh dòng sông nhuộm
đỏ với cảnh lá đỏ
trôi, tác giả đã dùng
thủ pháp 見立てmitate
(giả
trang hay giả tá). Ngoài ra khi để
lời giải thích (sông nhuộm đỏ
màu lá) đến sau nhận xét
(là chuyện chưa từng nghe), tác
giả đã sử dụng thủ pháp倒置法
(tôchihô)
để đảo nghịch bài thơ
từ sau ra trước.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Long Điền Xuyên Hồng
Diệp. 竜 田 川 紅 葉
Thần đại linh tích
xứ xứ sinh 神 代 霊 跡 処 処 生
Viễn cổ vị kiến
thử kỳ tình. 遠 古 未 見 此 奇 情
Hạo hạo Long Điền
Xuyên lý thủy, 浩 浩 竜 田 川 里 水
Tận bị hồng diệp
nhiễm thành hồng. 尽 被 紅 葉 染 成 紅
|
|
Anh dịch:
O Tatsta! When th’autumnal flow
I watch of thy deep, ruddy wave –
E’en when the stern gods long ago
Did rule. Was ne’er beheld so brave,
So far the stream as thine, I vow.
(Dickins)
I have never heard
That, e'en when the gods held sway
In the ancient days,
E'er was water bound with red
Such as here in Tatta's stream
(Mac Cauley)
|
|
Sandai Jitsuryoku (Tam
Đại Thực Lục), tác phẩm
gốc của Truyện
Ise, kể lại rằng
nhà thơ vương tử Narihira “dung
mạo đẹp đẽ, tính tình
phóng túng”, dù đã có
vợ con và đến tuổi trung niên
rồi vẫn là một khách phong
lưu. Ông và người anh, Yukihira
và Tả Đại Thần Kawara (Minamoto
no Tôru) sẽ là những “người
mẫu” để Murasaki Shikibu đúc
khuôn cho nên nhân vật tiểu
thuyết Hikaru Genji về sau. Ông có
một mối tình lớn với công
nương Fujiwara no Takai-ko (Đằng Nguyên,
Cao Tử) lúc đó tuổi vừa
đôi tám và đã hứa
gả cho thiên hoàng. Hai người
dắt nhau đi trốn và bị các
anh nàng đuổi theo bắt lại.
Chính bà này sau trở thành
Hoàng Hậu Nijô ( Nijô no Kisaki), chủ
nhân bức bình phong được đề
thơ. Chàng trai đa tình vì thế
bị đày về miền Đông.
Bà Shirasu Masako cho rằng việc
Hoàng Hậu Nijô và Narihira là
đôi tình nhân bị gia đình
bắt phải chia lìa trước khi bà
tiến cung là việc được ghi
chép lại ở nhiều nơi. Do đó,
bài thơ bình phong này không
chỉ thuần túy tả cảnh. Nó
còn giúp Narihira đưa ra “tuyên
ngôn” trước công chúng về
mối trình bỏng cháy và có
một không hai của mình.
|
|