|
e)
Tác giả và
hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ:
Gosen-shuu
(Hậu tuyển tập), quyển 15, phần
tạp thi, bài số 1089.
Seminaru
Tác Giả:
Seminaru ( một trong Lục Ca Tiên sống
vào hậu bán thế kỷ thứ 9
bước sang thế kỷ thứ 10, năm
sinh năm mất và hành tung không
rõ). Theo các tiểu thuyết lịch
sử Heike Monogatari
và Genpei Seisuiki ,
có thể ông là hoàng tử
thứ tư con Thiên Hoàng Daigô hay
xuất thân quí tộc, vì bất
đắc chí nên sống đời
phiêu bạt.
Ải Ôsaka là một
điểm cao độ 150 m trên một
ngọn núi (đúng ra là đồi)
tên Ôsakayama (Phùng Phản Sơn逢坂山,
còn viết là Hội Phản会坂),
được dựng lên năm Taika thứ
2 (646) và phá bỏ năm Enryaku 14
(795), cùng với ải Fuwa ở Gifu và
ải Suzuka ở Ise được xem như
3 cửa ải quan trọng (sankan三関).
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Cửa ải mang tên Dốc Gặp Gỡ
làm nghĩ đến cảnh người
gần để mà ly biệt.
Cụm từ Kore
ya kono có ý nói
“Nghe đồn rằng” trong đó
ya
là một từ cảm thán. Cửa
ải mang tên Ôsaka逢坂,
viết theo lối cổ là Afusaka逢ふ坂,
mà Afu (hay Au逢う)
có nghĩa là gặp gỡ. Ải
này là một nơi trên trục
giao thông từ kinh đô về miền
Đông. Nó nằm ở biên giới
hai vùng Kyôto (xưa là Yamashiro) và
Shiga (Ômi). Tuy đã sớm bị phế
bỏ nhưng vẫn còn tồn tại
như một điển cố trong thơ
(gối thơ hay uta-makura). Cụm từ “Ôsaka
no seki” 逢坂の関ở
đây được xem như một chữ
đa nghĩa (kake-kotoba) và được
dùng trong nhiều bài thơ.
Bài thơ đặt ra 3
tương quan đối lập (thủ pháp
đối cú : taiku): qua / lại, lạ /
quen, gặp gỡ / chia tay, chừng đó
đủ để làm một bức
tranh thu ngắn về cuộc đời con
người. Thi nhân trung cổ Nhật Bản
hay sử dụng đề tài “hội
giả định ly” (会者定離e-sha-jô-ri),
“ly hợp tập tán”
(離合集散ri-gô-shuu-san),
nghĩa là gặp nhau sẽ phải chia
ly, không khác gì lối nghĩ Việt
Nam về lẽ vô thường của
cuộc đời: “bèo hợp để
tan, hoa nở để tàn, người
gần để ly biệt” vậy.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Phùng Phản Quan 逢 坂 関
Khứ khứ lai lai khứ
lai tần, 去 去 来 来 去 来 頻
Tương phùng tương
biệt loạn phân phân. 相 逢 相 別 乱 紛 紛
Vấn hà tương
thức bất tương thức, 問 何 相 識 不 相 識
Phùng Phản Quan đa
lưu lạc nhân. 逢 坂 関 多 流 落 人
|
|
Anh dịch:
Some hence towards the city haste,
Some from the city here speed by,
Here friends and strangers meet and part,
With kindly glance and careless eye;
Apt is the name it seems to me,
Ausaka gate, men give to thee.
(Dickins)
Truly, this is where
Travelers who go or come
Over parting ways,--
Friends or strangers,--all must meet;
'Tis the gate of "Meeting Hill."
(Mac Cauley)
|
|
Sách Konjaku
Monogatari (Truyện giờ
đã xưa) có nói đến
việc hoàng tử Minamoto no Hiromasa, một
nhà quí tộc đa tài, đã
đến ải Ôsaka tìm gặp để
học khúc tì bà bí truyền
Ryuusen Takuboku
(流泉啄木Lưu
Tuyền Trác Mộc) “Chim gõ kiến
bên dòng suối chảy” của
Semimaru. Có lẽ nhà thơ mù này
vì cất am sống bên cửa ải
đầy
người qua kẻ
lại, nên biết xót thương
cho kiếp người cô đơn và
trôi nổi. Theo Fukuda Kiyoto, Seminaru từng
phục vụ hoàng thân Atsuzane, quan
khanh ở bộ Lễ, cũng là một
người thiện nghệ về âm luật
quản huyền.
Nhà thơ cận đại
Hagiwara Sakutarô cho rằng nên để
ý về hiệu quả âm thanh của
bài thơ. Sau khi đọc Kore ya
kono, rồi bước qua Iku mo,
Kaeru mo, Shiru mo, Shiranu mo...ta thấy
hiện lên trước mắt đủ
mọi hạng người, đủ mọi
cảnh đời đã chung một định
mệnh khi qua ải Ôsaka.
|
|