e)
Tác giả và
hoàn cảnh sáng tác:
Xuất xứ: Shuu-i
shuu (Thập di tập)
phần luyến ca (thơ ái tình), bài
số 778.
Tác giả: có
lẽ nhà thơ Kakinomoto no Hitomaro (Thị
Bản, Nhân Ma Lữ, không rõ năm
sinh năm mất) .
Kakinomoto no Hitomaro
Ông Hitomaro, một thi nhân
lỗi lạc vào thời kỳ thứ
hai của Man.yô-shuu, giỏi về
chôka, là thi nhân cung đình
tiêu biểu nhất. Thơ ông trang
trọng, hùng hồn. Đời sau tôn
kính, gọi ông là “ca thánh”
tức đại thi hào, lại có
chân trong Tam Thập Lục Ca Tiên.
Ông sống khoảng thời
gian hai thiên hoàng Jitô (ở ngôi
690-697) và Mommu (ở ngôi 697-707) nhưng
đến thời điểm thiên hoàng
Genmei (Nguyên Minh) lên ngôi (707) thì
dường như ông đã mất.
Khi còn trẻ, ông giữ chức xá
nhân tức người hầu cận Thiên
Hoàng Tenmu, sau đó tiếp tục
theo hầu các hoàng tử Kusakabe và
Takechi. Bài thơ đầu tiên của
ông thấy chép trong Man.yôshuu
được làm ra vào năm đầu
thời nữ thiên hoàng Jitô. Có
lẽ ông chết lúc đang làm
chức Kokushi ở vùng Iwami nghĩa là
thuộc hàng quan lại địa phương.
Nói chung tuy tài thơ cao, thân cận
với vua chúa, nhưng ông không có
chức phận cao sang trong triều đình.
Không có chứng cớ gì
cho biết bài thơ này do Hitomaro làm
nhưng không biết từ bao giờ, đã
được truyền tụng như thế
và Teika đánh giá nó cao..
f) Thưởng
ngoạn và phẩm bình:
Đề tài:
Đêm thu dài, một
mình trằn trọc không ngủ được
vì nhớ đến người yêu.
Bài này nói về nỗi
cô đơn lẻ bạn khi ngủ một
mình.Tương truyền, loài chim trĩ
núi (yamadori = copper pheasant) , trống mái
đến đêm tẻ ra đi ngủ
riêng ở núi khác. Tâm sự
chờ người yêu nên khó ngủ
của Hitomaro cũng giống như con chim trĩ
trống. Cái đuôi chim dài được
ví von với dòng thời gian.
Trong Man.yôshuu, bài này
được liệt vào loại thơ
không rõ tác giả và xem như
thuộc loại “khuê oán” (đàn
bà hận cảnh phòng không). Theo
bà Shirasu Masako, một bài khác
trong tập 11 của Man.yô-shuu cũng
có câu Yamadori no o no, Nagaki kono yo wo
(Cái đêm nay dài như đuôi
chim trĩ) mà không thấy ai nói
bài ấy là của Hitomaro. Tuy nhiên,
đến thời Heian thì người ta
dồn phiếu cho, xem bài số 3 Ashibiki
no nhắc đến trên đây
chính tác phẩm tiêu biểu của
ông ta. Ngoài ra, không ít những
nhà bình luận cho rằng ý thơ
làm liên tưởng đến những
cặp vợ chồng hay người yêu
bị chia cách, tỏ lòng thương
nhớ nhau, chứ không riêng gì tâm
sự của một người nghĩ đến
một người khác mà thôi.
Chữ
naganagashi (dài thật dài)
nối liền với chữ khơi mào
(jo-kotoba) tức là cả tiểu đoạn
“ashibiki no yamadori no o no shidari o no”
sử dụng thủ pháp điệp ngữ,
láy đi láy lại hai âm naga
để đi vào ý chính
(honshi). Chữ gối (makura-kotoba) ashibiki no
(còn đọc là ashihiki, không
rõ nghĩa) là một qui ước
dùng khi viết về núi.
g)
Dư Hứng:
|
Hán dịch:
Trường Dạ 長 夜
Du du trường dạ
trường, 悠 悠 長 夜 長
Trường tự trĩ kê
vĩ. 長 似 雉 鶏 尾
Cô linh chỉ nhất
nhân, 孤 零 只 一 人
Triển chuyển như hà
thụy. 輾 転 如 何 睡
|
|
Anh dịch:
The hill-side fowl his long dropped tail,
Sweeps o’er the ground – so drags the night.
My lonely plight
I mourn – my sleepless wretchedness bewail.
(Dickins)
Ah! the foot-drawn trail
Of the mountain-pheasant's tail
Drooped like down-curved branch!--
Through this long, long-dragging night
Must I keep my couch alone?
(Mac Cauley)
|
|
Yamadori (chim núi) trong câu thứ
hai chỉ một giống chim trĩ (kiji) nên
Đàn Khả dịch là “trĩ
kê” ở đây. Phong tục Nhật
Bản tránh không tặng chim trĩ núi
trong ngày cưới vì đó là
điềm gỡ báo sự chia ly, có
lẽ bắt đầu từ khi có bài
thơ này.
|