Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về ]
[Trang
Chủ ]
|
|
Không
có nhiều tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Félix
Arvers (1806 - 1850) Sách văn học sử Pháp ( Collection littéraire
LAGARDE & MICHARD , XIXe siècle ) không hề nhắc đến Ông.
Từ điển Hachette giới thiệu rất nhiều nhà văn, nhà thơ
thuộc nhiều thời đại cũng không ghi tên Ông. Larousse thì
chỉ nói vắn tắt : " Thi sĩ Pháp, nổi tiếng với bài Sonnet
bắt đầu bằng câu : Mon âme a son secret, ma vie a son mystère".
Một tư liệu khác có vẻ cụ thể hơn cũng chỉ ghi vẻn vẹn
đôi dòng ngắn ngủi :
"Félix Arvers là tác giả nhiều vở kịch khá thành công. Tác phẩm của Ông đã bị lãng quên, ngoại trừ tập thơ Mes heures perdues ( Những giờ khắc hoài phí )." ( Félix Arvers fut l'auteur d'un grand nombre de pièces de théâtre qui connurent un grand succès. Son uvre fut oubliée à l'exception de son recueil de poèmes " Mes heures perdues.") Tập thơ Mes heures perdues xuất bản năm 1833, thời điểm mà tên tuổi các nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn Pháp đã rực sáng, từ Lamartine với Méditations poétiques ( 1820 ), Victor Hugo với Les Odes ( 1822 ), Les Orientales ( 1829 ), Lesfeuilles d'automne ( 1831 ), Alfred de Vigny với Poèmes antiques et modernes ( 1826 - 1835 ), cho đến Alfred de Musset với Premières poésies ( 1835 ) ... Không rõ tập thơ dày mỏng thế nào, chỉ thấy còn lưu truyền một vài bài, trong đó một số bài viết tặng bằng hữu, hoặc có ghi tên ( À Alfred Tattet , À Alfred de Musset ), hoặc viết tắt hay giấu tên ( À mon ami *** , Sonnet à mon ami R. ), để bày tỏ quan điểm về nghệ thuật, về thi ca... Và tất nhiên hơi thở của dòng thơ trữ tình, bi thương của thời đại phả đầy trong thơ Arvers. Ông không ngần ngại nói rõ khát vọng kiếm tìm hạnh phúc của mình, dù đấy chỉ là thứ hạnh phúc bình dị của " chút tình tri kỷ " : J'abandonnais l'amour à la jeunesse ardentehoặc là thứ hạnh phúc gia đình với vợ đẹp, con ngoan, với bạn bè, láng giềng thân thuộc để sớm hôm hàn huyên tâm sự : J'avais toujours rêvé le bonheur en ménage,Thế nhưng hạnh phúc đâu dễ tìm vì tình yêu đâu dễ gặp. Trước sau vẫn chỉ là " người tình trong mơ " bởi người chợt đến, chợt đi, không ước hẹn, ta trở về, thui thủi một mình ta. ... Rien n'a signalé sa venue,Những bài thơ như thế này chưa đủ để làm nên tên tuổi của tác giả và đều đã bị lãng quên. Trong toàn bộ tập thơ, duy nhất một bài được biết đến và chỉ cần bài này là đủ làm cho tác giả nổi tiếng, như cách nói của từ điển Larousse nêu trên. Độc giả Việt Nam biết đến Arvers cũng chỉ qua bài Sonnet này , trước tiên thông qua bản dịch của một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Bản dịch, với nhan đề Tình tuyệt vọng, thành công đến nỗi nhiều người cho rằng nó còn hay hơn cả nguyên tác có tên đơn giản là SONNET, hoặc là SONNET D'ARVERS như người ta thường gọi. Nguyên tác bài thơ như sau : SONNET D 'ARVERSSống và sáng tác vào nửa đầu thế kỷ XIX, thời kỳ rực rỡ nhất của trường phái lãng mạn trong nền thi ca Pháp, vốn chuộng sự tự do thoải mái đến độ buông thả trong nội dung và hình thức, Arvers lại chọn Sonnet, một thể thơ đòi hỏi nhiều ràng buộc về hình thức. Mỗi bài Sonnet chỉ có 14 câu, bao gồm 2 khổ thơ bốn câu ( quatrain ) và 2 khổ thơ ba câu ( tercet ). Mỗi câu gồm 12 âm tiết ( syllabe ). Cách gieo vần cũng phải theo quy định chặt chẽ : Nếu ở các khổ bốn câu có thể dùng các loại vần thông dụng ( vần chéo : ABAB, hoặc vần ôm : ABBA ) thì các khổ ba câu phải gieo vần liền 2 khổ theo kiểu CCD / EED hoặc CCD / EDE. Mon âme a son secret, ma vie a son mystère.Đây rồi cái "tôi"( le "moi" ) quen thuộc của trường phái lãng mạn, cái tôi mạnh dạn và thẳng thắn, không ngại ngần úp mở, không rào đón quanh co, được nhấn mạnh bởi cách dùng một loạt các tính từ sở hữu và đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. Và ở đây cái tôi gắn liền với khái niệm khổ đau : "Le mal est sans espoir...", " Hélas !", " solitaire...". Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taireNỗi đau không nói được, xin mượn ngòi bút để thổ lộ can trường, bởi, nói như Alfred de Musset, một người bạn thơ của Arvers : Les plus désespérés sont les chants les plus beauxĐiều bi thảm hơn là nỗi đau đó chừng như đeo đẳng suốt cả cuộc đời chàng trai si tình. Un amour éternel en un moment conçu.Hẳn là chàng gặp gỡ đã từ lâu. Hẳn là chàng đau khổ đã từ lâu .Bởi nàng nào đâu hay biết gì ( elle n'en a jamais rien su) . Và hơn thế nữa, suốt quãng đời còn lại cũng hoàn toàn vô vọng, "dù gặp nhau cúi mặt bước mà thôi " : Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terreKhông dám. Dù chỉ một lần. Phải chăng vì chàng quá nhút nhát, e thẹn ? Không, chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền hậu quá, hãy để nàng thủy chung, hãy để nàng chu toàn bổn phận. Cho hình ảnh nàng mãi thánh thiện. Cho Tình Yêu thăng hoa. Và trở thành bất tử. Ít nhất là với bài thơ này. Vâng, chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền thục quá ... Pour elle, QUOIQUE Dieu l'ait faite douce et tendreThật đáng ngạc nhiên khi nhà thơ dùng QUOIQUE ( mặc dù ) ở đây : mặc dù nàng đoan trang và hiền thục quá , nàng sẽ không nghe thấy tiếng thì thầm của tình yêu ? Lẽ ra phải là PUISQUE Dieu l'a faite douce et tendre ( bởi vì ). Vì nàng rất mực đoan trangNhưng nàng là ai ? Đọc văn thơ, nghe âm nhạc, nhiều người vẫn có thói quen tò mò muốn biết ai là nguyên mẫu, là nguồn cảm hứng khiến người nghệ sĩ viết nên bài thơ, bản nhạc ấy. Trường hợp này cũng thế. Từ sau khi bài thơ được phổ biến, bao nhiêu giấy mực đã dành cho cuộc truy tìm lai lịch người đẹp khiến thi sĩ ôm mãi mối tình tuyệt vọng mà viết nên những dòng thơ trác tuyệt này. Có ý kiến cho rằng dây chỉ là một hình ảnh phúng dụ ( allégorie ), người đẹp chẳng hề hiện hữu, hơn nữa trong các ấn bản đầu tiên của tập thơ, trên bài này có ghi chú " dịch từ tiếng Ý " ( traduit de l'italien ) nhưng vì không ai đưa ra văn bản gốc nên giả thuyết này không đứng vững được. Một ý kiến khác, dựa vào quan hệ thân tình giữa Félix Arvers và Victor Hugo, cho rằng người đẹp bí mật này chính là ... phu nhân của Victor Hugo mà Arvers đã kín đáo nhắc đến tên Adèle bằng cách dùng các vần " fidèle " và "d'elle" trong khổ thơ cuối ! Ý kiến khác nữa - có vẻ được nhiều người đồng tình - nhắc đến tên Marie Nodier, ái nữ của nhà văn viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Charles Nodier ( 1780-1844 ), người thường tổ chức những buổi bình thơ văn tại thư viện Arsenal quy tụ nhiều thi sĩ lừng danh như Victor Hugo, Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset... Những lần gặp gỡ thường xuyên nơi đây đã khiến Arvers thầm yêu trộm nhớ Marie Nodier mà không hề ngỏ ý cho đến khi nàng sang ngang vào năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier - Nodier. Nhưng nói cho cùng, có nhất thiết phải biết rõ về người phụ nữ đó thì người đọc mới cảm mới thích bài thơ này không ? |
CÁC BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT |
Trước khi đọc
lại một số bản dịch, tưởng cũng nên thử DỊCH NGHĨA
bài thơ để từ đó có thể thấy sự sáng tạo của các
dịch giả :
Mon âme a son secret, ma vie a son mystèreBản dịch của Khái Hưng : Tình tuyệt vọngKhái Hưng hẳn không phải là nhà thơ, lại càng không phải là người dịch thơ nhưng bỗng dưng với bản dịch tài tình bài thơ của Arvers, Ông lại được biết đến ở một lĩnh vực khác với sự nghiệp tiểu thuyết của mình. Thật ra bài thơ dịch này ban đầu không xuất hiện riêng lẻ mà nằm trong truyện ngắn TÌNH TUYỆT VỌNG của Khái Hưng. Trong truyện này người đau khổ vì yêu là thi sĩ Văn Châu, một lần đi làm phù rể cho bạn, chàng bỗng đem lòng yêu ... vợ bạn ! " Chàng không hiểu vì cớ gì, nhưng mới thoạt trông thấy cô dâu là chàng đã đem lòng yêu ngay, cái yêu vô nghĩa lý, nhưng nó mạnh mẽ vô chừng, tưởng như hai người vốn sẵn duyên kiếp từ đời nào, đã hẹn hò cùng nhau ở kiếp nào mà đến bây giờ mới gặp gỡ." Sau ngày cưới đó, ngày ngày Văn Châu vẫn đến chơi nhà bạn, " trong lòng chôn một mối tình vô lý". Năm năm sau, nhân một buổi tiệc đêm Noel cùng với vợ chồng người bạn và hai người khác nữa, thi sĩ mới có cơ hội thú nhận " tôi phạm một tội nặng lắm " mà bạn chàng hiểu ngay là tội khả ái, là ái tình tuyệt vọng ! Được bạn thông cảm an ủi "vậy thì anh cứ yêu, cứ yêu như anh đương yêu. Yêu như thế không có tội gì hết, mà người chồng dẫu có biết cũng chỉ thương anh chớ không ngờ vực anh đâu", thi sĩ Văn Châu mới đọc cho các anh các chị nghe bài đoản thi tôi dịch của Arvers ra quốc văn. (
Nguồn : dactrung.com )
Tình tuyệt vọng (-) Khái Hưng đã hiểu, đã cảm, đã chia sẻ hết cả tình cả ý cả tâm trạng cả nỗi niềm của tác giả nên mới đặt thêm cái nhan đề này. Và những người dịch khác, sau Ông, ( Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Trần Mai Châu...), hẳn muốn làm khác đi nhưng cũng phải viết lại như thế thôi. Dịch thơ Sonnet Pháp, Khái Hưng đã chọn thể thơ lục bát thuần Việt, bám sát nguyên tác từng khổ thơ một, chỉ phát triển hai khổ ba câu cuối thành tám câu, cho trọn bốn cặp sáu tám. Bám sát nguyên tác nhưng không hề gò ép, khiên cưỡng, vụng về theo kiểu dịch "mot à mot", ngược lại rất nhiều câu dịch đúng và đủ ý mà không có vết tích của sự chuyển ngữ : Dẫu ta đi trọn đường trầnTrong toàn bài, cái không khí u uẩn, ngậm ngùi, sầu thảm được tô đậm bởi cách dùng từ rất "đắt" - Lòng ta chôn một khối tìnhNhịp điệu đều đặn của thể thơ ( 2- 2- 2 ... ) đột ngột bị phá vỡ ở câu thứ ba ( 3- 3 ) như một nốt nhạc trầm chùng xuống trong cảm xúc của người đọc, rồi trở lại cho đến cuối bài. Lòng ta chôn một khối tìnhBiện pháp vừa điệp âm vừa điệp ngữ ở hai câu thơ cuối khép lại bài thơ đưa người đọc vào một nỗi bâng khuâng thương xót : Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòngCó thể nói nếu không ghi chú " nguyên tác tiếng Pháp.... ", nhiều người không nghĩ đây là thơ dịch, nhất là khi đọc những câu : Người dù ngọc nói hoa cườiHay Một niềm tiết liệt đoan trinh"Tình tuyệt vọng" của Khái Hưng vẫn xứng đáng được nhiều yêu thích và thuộc nằm lòng từ lúc được công bố đến nay. Sau Khái Hưng, một số tác giả khác cũng đã dịch cùng bài này. Bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc : Tình tuyệt vọngĐây cũng là một bản dịch hay. Và vẫn là thể thơ lục bát. " Vẽ chiĐể dịch đủ ý, Lãng Nhân phải kéo dài đến 20 câu. Khổ bốn câu đầu tiên phải chuyển thành tám câu thơ dịch. Người đọc có thể thấy thú vị khi thấy dịch giả tận dụng phép chơi chữ với đại từ phiếm chỉ "ai", rất phong phú và sâu sắc trong tiếng Việt : ... Một mình mình biết, ngỏ lời cùng ai ?Bản dịch của Trần Mai Châu: (Thơ Pháp thế kỷ XIX, nxb Trẻ, 1996) Tình tuyệt vọng Về bản dịch này, dịch giả Trần Mai Châu cho biết :Lòng trĩu nặng một mối sầu sâu kín,Võ vàng là lá thư hoa, " Khi quyết định dịch bài Xon-nê này, trong óc tôi đã hiện ngay ra mấy câu : "Lỡ yêu rồi đến thác vẫn vương tơ ..."và : " Ta vô vọng nên trọn đời câm nín,Tôi dịch tiếp và chỉ sau mấy giờ đã dịch xong cả bài Xon-nê. Nhưng đến nay, nghĩa là sau tám năm, tôi vẫn có cảm tưởng mình chưa hoàn tất bản dịch vì câu : " Et j'aurais passé près d'elle inaperçu " - một câu rất đơn giản, tôi vẫn chưa dịch được vì dịch thế nào nó cũng tương tự ( về ý nghĩa ) với những câu khác trong bài. " ( Kiến
Thức Ngày Nay - số 503 - trang 75 )
Bản dịch của
Mộng Tuyết Thất tiểu muội :
U tình Trong một phút ôm lòng thắc mắc,Một không khí trầm mặc bi thương với nhiều từ cổ và thể thơ song thất lục bát ! Bản dịch
của HOÀI AN :
Lòng ta ôm mối tình câm,Có một chút gì chưa thanh thoát lắm trong câu "Đoan trang, nàng vẫn cứ đi trên đường", so với "đường trần", " đường đời " của Khái Hưng thì thấy ngay. Và "đọc thư ta gửi ... ", nếu chàng gửi thư thì chuyện có thể đã khác rồi ! Bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên HẬN TÌNH MUÔN THUỞ Đời tôi, tôi giữ một phiền, đời tôi... Tôi yêu, tôi lỡ yêu rồi... Nhưng yêu chỉ để... thì thôi, một mình. Gần ai, ai thấu
chăng tình,
Dầu ai, âu yếm,
nhu mì
Giờ đây, nội
trợ hoàn toàn,
Chừng đó đủ thấy trong dịch thuật, nhất là dịch thơ, việc trung thành tuyệt đối với văn bản gốc là điều cực khó - mà thực ra, có cần như thế ? Bản dịch dù có biến dạng ít nhiều vẫn là một tác phẩm nghệ thuật với tất cả cảm xúc và sáng tạo của người dịch. Bản dịch của Bình Nguyên Lộc Hồn tôi ủ kín
niềm riêng,
Nàng chẳng thấy,
gần nàng tôi bước.
Dẫu tánh tình
nhu mì mềm mỏng,
Đạo vợ hiền,
trung trinh một mực,
Đạo vợ hiền, trung trinh một mựcBản dịch của Vita Lòng tôi khép
chặt khối tình,
Ái ân đạo cả
trung trinh,
Bản nhiều
người dịch. ( Dịch giả là một nhóm gồm: Nhất Linh, Bảo
Sơn, Lê Đình Gioãn, Kỳ Quan, Nhất Anh, mỗi người dịch một
câu rồi ghép lại thành bài)
Đời u uẩn, lòng ta u uẩn,Mỗi người dịch một câu rồi ghép lại thành bài. Đừng mong gì về chất lượng nghệ thuật của những "công trình tập thể" kiểu này vì mỗi người chỉ cố gắng " hoàn thành nhiệm vụ" của mình, không ai biên tập lại. Bởi thế, ở đây thấy như thiếu nhạc điệu, thiếu cả vần điệu. Bởi thế tác giả mới bị gán một cách tức tưởi cái tâm trạng " hận khôn rửa "mà không ai can thiệp. Ông chỉ có một mối tình tuyệt vọng, tình câm nín, yêu mà không dám ngỏ, không dám nói... chứ có dám thù hận gì ai, lại càng không dám tìm cách rửa hận bao giờ ! Việc nhiều người cùng dịch một bài thơ nước ngoài, kể cả khi đã có một bản dịch thành công rồi, chắc là chẳng có hại gì mà ngược lại có thể giúp người đọc tiếp cận với giá trị của bài thơ gốc với nhiều cách cảm thụ khác nhau. Và bản dịch tiếng Anh : My soul its secret
has, my life too has its mystery,
Translated by Henry
Wadsworth Longfellow
|
CÁC BÀI THƠ MÔ PHỎNG |
Trong khi người
đọc khắp nơi tìm cách chuyển ngữ bài thơ để giới thiệu
rộng rãi hơn với công chúng thì ngay trên đất Pháp lại
có một hiện tượng thú vị : hàng chục, hàng trăm bài thơ
mô phỏng ( pastiche ) ra đời.
Có thể chỉ là những bài đùa nghịch, không theo chủ đề của bài thơ gốc, viết cho vui theo kiểu : Paysage éternel en un moment conçu, Suis-je un pré, suis-je un bois ? Hélas ! je dois me taire, Car celui qui m'a fait n'en a jamais rien su. ( ... ) Par un brusque freinage, en un moment conçu, J'ai failli déraper, aussi j'ai dû me taire : Celle que j'épargnai n'en a jamais rien su. ( ... ) Que l'amour éternel en votre âme conçu Est un mal sans espoir, un secret qu'il faut taire Et comment supposer qu'elle n'en ait rien su ? Non, vous ne pouviez point passer inaperçu, Et vous n'auriez pas dû vous croire solitaire. Parfois les plus aimés font leur temps sur la terre N'osant rien demander et n'ayant rien reçu. Pourtant Dieu mit en nous un cur sensible et tendre. Toutes, dans le chemin, nous trouvons doux d'entendre Le murmure d'amour élevé sur nos pas. Celle qui veut rester à son devoir fidèle S'est émue en lisant ces vers tout remplis d'elle : Elle avait bien compris, mais ne le disait pas. Bạn hỡi, sao nói với tôi một cách bí mật thếBản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội : RIÊNG ĐÃ HAY RỒICó những tác giả nổi tiếng nhờ khối lượng tác phẩm đồ sộ, hàng trăm tập, hàng ngàn bài. Cũng có tác giả, ngược lại, chỉ cần một bài là tên tuổi lưu mãi đời sau. Félix Arvers thuộc trường hợp này. Mà Khái Hưng, nói riêng về việc dịch thơ, cũng thuộc trường hợp này.
|
|