Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
I. GẶP GỠ THƠ KHI ĐỌC TRIẾT HỌC (1) |
Đây không phải là
bài bàn luận về thi ca, một vấn đề rộng lớn đòi hỏi
nhiều hiểu biết thấu đáo về kỹ thuật hay lịch sử các
trường phái của thi ca. Dĩ nhiên trong thi ca có triết lý bao
hàm ở bên trong, có thái độ tư tưởng hay lập trường của
thi sĩ, nên công việc này cũng không phải đi tìm những vấn
đề của triết học tàng ẩn trong thi ca. Việc đi tìm đó
có phải được đặt tên là hướng phê bình theo chủ đề
của triết lý? Đối với vài triết gia, thi ca cũng làm thành
vấn đề triết học, vậy nên phân biệt "thi ca, một vấn
đề triết học" với "tính chất thi ca trong triết học".
Nhưng thế nào là "thi ca, một vấn đề của triết học"?
Trong lịch sử triết lý Tây Phương, theo sự hiểu biết hạn
hẹp của người viết bài này thì có hai triết gia đã làm
cho thi ca trở thành vấn đề triết học, là Schopenhauer và
Heidegger. Đối với Schopenhauer, nghệ thuật nói chung và thi
ca nói riêng, là một cách thế giải thoát con người ra khỏi
ngục tù dục vọng mà ông gọi là "ý chí muốn sống" (le
vouloir-vivre). Cũng giống như chủ trương của triết học Phật
Giáo, Schopenhauer cho rằng chính ý chí muốn sống ấy gây ra
bao nhiêu cuộc đấu tranh tàn nhẫn, làm cho đời người trầm
luân trong biển khổ, vậy muốn giải thoát con người thì
phải tiêu trừ cái lòng ham muốn. Điều đặc biệt nơi triết
lý Schopenhauer là ông coi nghệ thuật (âm nhạc đúng hơn thi
ca) như cách thế giải thoát thứ nhất (Première libération
du vouloir-vivre). Tại sao nghệ thuật có thể giải thoát ta
ra khỏi ngục tù dục vọng tham sinh úy tử? Tại vì sự chiêm
ngưỡng thẩm mỹ đưa ta đến một nhãn giới khác với thế
giới hữu hình phiền đa và biến chuyển. Ông lấy thí dụ
như khi lạc vào vùng sa mạc im lìm không sự sống, nếu ta
đắm chìm vào sự chiêm ngưỡng thuần túy thì ta sẽ không
còn sợ hãi cái chết; ta không còn vướng bận lẽ Tồn Vong:
"Transportons-nous
dans une contreé solitaire; l'horizon est illimité, le ciel sans nuages,
des arbres et des plantes dans une atmosphère parfaitement immobile, point
d'animaux, point d'hommes, point d'eaux courantes, partout le plus profond
silence, un pareil site semble nous inviter au recueillement, à la contemplation
toute affranchie de la volonté et de ses exigences".(2)
[Trích trong
cuốn "Schopenhauer, "L'art et la sagesse"- Bản dịch từ Đức
ngữ của André Dez, trang 128] Người thứ nhì coi thi ca như
một vấn đề triết học là Heidegger. Đối với Heidegger,
nhiều học giả cho rằng ông là triết gia của "chân lý hữu
thể"; triết học của ông mãi bàn về thực tại hằng cửu
ẩn đàng sau hiện tượng. Nhưng "hữu thể" này đào sâu đến
nền tảng, không phải loại hữu thể đã biến thành sự
vật như "bản thể" trong triết học cổ điển. Ngoài tính
chất sự vật tính, hữu thể trong triết học cổ điển là
cái gì quá trừu tượng khô lạnh, vì đã phủi sạch những
vấn vương sương khói của huyền học. Vậy mà hữu thể
trong triết lý Heidegger cũng không phải là cõi siêu hình đối
lập với thế giới hữu hình; nó là giải sương mù huyền
hoặc đầy tính chất lãng mạn và bí ẩn, mô tả là ở trên
đối nghịch hữu hình và vô hình, tinh thần và vật chất,
thời gian và vĩnh cửu. Nó là "logos" tức "nguyên ngôn" dung
hòa mọi dị biệt, nhưng cũng không thể hiểu nó như một
sự vật, khó đem ra diễn tả bằng lời, thấu rõ bằng lý
trí. Theo Heidegger, trước khi đi tìm hữu thể của vạn vật,
hãy mô tả hữu thể con người trước đã. Hữu-thể-con-người
được gọi là "Dasein" (từ ngữ Dasein này cũng không phải
dễ hiểu trong tư tưởng của Heidegger). Ông còn chủ trương
thi ca cũng là một cửa ngõ đi tìm hữu thể, bởi vì thi ca
là sáng tác (Poiesis), mà sáng tạo là đem cái gì từ hư vô
ra ánh sáng. Thi ca theo nghĩa nguyên thủy là sáng tác, nên việc
đó có thể đem hữu thể còn ẩn dấu ra ánh sáng. Tại sao
thi ca lại có thể làm xuất lộ hữu thể, tức bản chất
của sự vật? Theo Heidegger, ngôn từ của thi ca là nhà ở,
là nơi ẩn dật của hữu thể (le langage est la maison de l'être).
Căn cứ vào chỗ này, giáo sư Trần Thái Đỉnh, trong tạp
chí "Đại Học", xuất bản tại Huế, viết nơi bài "Heidegger
và bản chất thi ca", đã cho rằng quan niệm về thi
ca của Heidegger khác với cách hiểu thi ca có màu sắc văn
nghệ văn chương. Đó là nhận xét thật chuyên môn về phương
diện "bản thể" bởi vì thi ca theo nghĩa của triết lý Heidegger
là một vấn đề của siêu hình học. Nhưng có lẽ nhận xét
ấy chưa đặt vấn đề quan trọng này: tại sao Heidegger lại
chủ trương việc đi tìm bản thể bằng thi ca mà lại không
bằng âm nhạc hay hội họa hay các nghệ thuật khác? Đặt
vấn đề như vậy là tìm hiểu nguồn gốc cảm hứng của
Heidegger đối với thi ca, trước khi ông bàn về triết học.
Có lẽ Heidegger là người đã tìm thấy cái thâm sâu ẩn dấu
của thi ca mà ông Bùi Giáng gọi là phần vô ngôn, cái ở
bên kia lời, vì Heidegger đã từng viết "Plus l'oeuvre d'un
pòete est poétique et plus son dire est libre: plus ouvert à l'imprévu,
plus prêt à l'accepter" (Trong bài "L'homme habite en poète",
bản dịch ra Pháp ngữ của André Préau đăng trong tạp chí
"Cahier du Sud", số 344 năm 1958) (3). Thấu hiểu được tính
cách xuất lộ bất ngờ đó của thi ca, Heidegger mới chủ
trương thi ca là cửa ngõ đi tìm hữu thể, như vậy "ăn khớp"
với chủ trương chân lý là sự "vén màn" của sự vật, nhằm
làm xuất lộ ra thực tại linh động. (Thực tại lung linh
ấy vẫn là bản thể, nhưng Heidegger không ưa Sự-Vật-Tính
của bản thể trong triết học cổ điển). Từ nguồn gốc
cảm hứng thi ca trên bình diện văn chương, Heidegger đã chuyển
thi ca vào bình diện triết học, trở thành một vấn đề
của Bản Thể Học. Vậy xin nhắc lại, đây không phải là
một bài nghiên cứu về thi ca theo nghĩa thông thường, cũng
không phải là bài tìm hiểu thấu đáo vấn đề triết học
lấy đối tượng thi ca trong triết lý Heidegger. Bài này tự
giới hạn ở chỗ đi tìm tính chất thi ca nằm trong các trang
chữ triết học. Có thể nói rằng công việc này ngược lại
với ý hướng đi tìm những vấn đề siêu hình nằm trong
thi ca. Còn đây thì chỉ đi tìm những hình thức thuộc về
văn chương trong triết học, và những nội dung gợi cảm thơ.
Tại sao có thể đặt được vấn đề có tính chất thi ca
trong tác phẩm triết học. Vấn đề được đặt ra là vì
khi đọc triết học, ta cảm nhận ra những thấp thoáng mỹ
cảm của ngôn ngữ diễn tả tư tưởng. Đó là các văn ảnh
và huyền truyện hiện diện khá nhiều trong triết học. Ngoài
hình thức văn chương, chất thơ cũng do từ nội dung triết
lý làm lay động đến tâm tình của đại chúng, khi họ đọc
tới những đoạn bàn đến vũ trụ bao la, đời người vô
nghĩa, vạn vật vô thường; hoặc cho biết còn một thực
tại hằng cửu phía sau những biến dịch đổi dời (xin gọi
là ẩn thể thay vì hữu thể quá trừu tượng đối với đại
chúng). Chất thơ cũng do các nội dung về Tâm Lý Học. Chẳng
hạn William James nói tâm hồn con người như những lớp sóng,
hết lớp nọ đến lớp kia, tạo nên một dòng nước ý thức
sinh động: như nghe một tiếng sấm thì không phải chỉ nghe
tiếng sấm đó mà thôi, nhưng bao hàm nghe được sự im lặng
mới đó đã bị triệt tiêu. Thật là thơ khi bà bá tước
De Nouailles nói không bao giờ ta còn gặp lại tâm hồn chiều
nay của chúng ta v.v... (Những văn ảnh có chất thơ này không
phải ở nơi những tác phẩm khó tìm, mà đã rải rác trong
các sách giáo khoa môn Tâm Lý Học và Siêu Hình Học thuộc
chương trình Trung Học Việt Nam trước 1975 tại Miền Nam).
Văn ảnh và huyền truyện. Nội dung siêu hình và sự đào sâu tâm lý. Đó là những tính chất thi ca trong triết học. Áp dụng tính chất văn ảnh có chất thơ ấy (phân biệt với các văn ảnh không cần chất thơ mà chỉ cần minh-họa), người viết bài đã có một số thơ sáng tác thử cụ-thể-hóa vài ý tưỏng trừu tượngcủa triết-học, và đã in trong "Tập Thơ Độc Nhất" và "Tập Thơ Bổ Khuyết", phát hành hạn chế tại Sài Gòn vào năm 1964. Những sáng tác ấy đã được ông Trần Nhựt Tân (Tiến sĩ Triết Học) đề cập đến trong cuốn "Dư Vang Nghệ Thuật", xb. năm 1971 tại Sài Gòn. |
II. VĂN-ẢNH TRONG TRIẾT HỌC THƯỜNG Ở DẠNG VĂN XUÔI (4) |
Ta thử phân biệt "Thơ:
Một vấn đề của triết học" và "Tính chất thơ trong
triết học". Có lẽ trong lịch sử triết học (ít nhất
là trong triết học Tây Phương), chỉ có triết gia Đức tên
là Martin Heidegger (1889-1976) là người đã đặt thi ca thành
một vấn đề của triết học. Ông đã dựa vào nguyên ngữ
Hy Lạp Poiesis, dịch ra là thi ca, mà thi ca theo nguyên ngữ này
có nghĩa là vén màn hư ảo, là làm xuất hiện phần vô ngôn
ẩn tàng sau ngôn ngữ, là làm phơi bày ra ánh sáng những che
giấu sau hiện tượng ta trông thấy và thâu nhận hàng ngày.
Chân lý theo Heidegger là làm sao bắt gặp ẩn thể đó, mà
hiểu được chỉ có cách là làm quen, giao tiếp thân mật,
không thể hiểu được bằng khoa học, bằng định luật vật
lý, bằng suy luận, nói chung là không thể thông cảm những
lung linh ẩn tàng bằng sự học thức. Cũng giống như những
con đường rừng chằng chịt, chỉ có người tiều phu đốn
củi là rành rọt đường đi lối về, vì người tiều phu
là kẻ thân thuộc, là bạn thân thiết của những con đường
mòn đó. Từ quan niệm đặc biệt về thi ca như vậy, Heidegger
mới chú giải thơ Holderlin (cũng là một thi sĩ người Đức)
như một cuộc hành trình trở về quê hương, tức là nguồn
cội của ẩn thể; và chú giải ngôn ngữ như một ngôi nhà
(nhà
ở đây có nghĩa là nơi tàng trữ cái sâu xa bí ẩn); và
chú giải thi sĩ như một kẻ chăn cừu (le berger de lêtre),
vì chỉ thi sĩ mới chăn dắt được thi ca (thi ca ở đây
có nghĩa là vén màn bí mật của ẩn thể). Từ quan niệm
thi ca như một vấn đề triết học của Heidegger, từ quan
niệm thi ca đồng nghĩa với hé lộ huyền nhiệm của ông,
ta không thể không liên tưởng đến "hồn sông núi" (cũng
là một ẩn thể) trong ngôn ngữ mỗi dân tộc. Như lời ca
dao thắm thiết, như tiếng hát ru con ngậm ngùi, chắc chỉ
có ta là thông cảm được hồn thiêng ấy, vì ta là kẻ quen
thuộc thân thiết, mà người ngoại quốc dù có thông bác
ngôn ngữ ta đến đâu có lẽ cũng không làm sao bắt gặp
được hồn sông núi đó.
Còn như chất thơ trong triết học là một vấn đề thuộc lãnh vực văn chương. Tương tự như ta có thể tìm thấy chất thơ khi ta đọc tới những biển dâu dời đổi trong môn địa chất học; hoặc tìm thấy chất thơ khi đọc tới những huyền ảo của khám phá khoa học về sự thống nhất thể từ vật chất siêu vi tới những thiên hà vĩ đại trong vũ trụ, trong ngành vật lý thiên thể hiện đại (Astrophysics). Ta đọc tới là đọc tới qua ngôn ngữ diễn đạt, không phải qua những dụng cụ khoa học, thì phải chăng văn chương vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với ta, khởi điểm để biết khoa học. Cũng vậy, ta cảm thấy cái hay của triết học nhiều khi không hẳn do thích thú hệ thống lý luận chặt chẽ, mà do chất thơ của văn-ảnh, thâm trầm của huyền truyện; như huyền truyện tù nhân trong thạch động của triết gia Platon; như huyền truyện cánh chim bằng bay về ao trời của Trang Tử; như văn-ảnh "Con sông dài qua kinh thành cũ" biểu tượng cho dòng thời gian với suối nguồn là quá khứ, biển cả là tương lai, nơi ta chứng kiến nước đang qua là hiện tại. Triết học Phật Giáo với rất nhiều những văn-ảnh có chất thơ: bãi cát Sông Hằng, mặt biển sinh diệt, bờ bến đam mê, con thuyền giác ngộ, giải sương mù ảo hóa, tiếng dội hải triều âm...Ta thử đọc một đoạn trích trong triết học Phật Giáo: "- Này Đại Vương,
nếu có người thắp một ngọn đèn lên, ngọn đèn có thể
cháy suốt đêm được không?
Đọc đoạn văn xuôi trên đây, ta có cảm tưởng đó là một đoạn thơ. Tại sao? Cái gì phân biệt thơ với văn xuôi? Một trong những yếu tính của thơ là nét cụ thể của một hình ảnh hay, một biểu tượng hay. Biểu tượng hay làm cho dễ hiểu một ý tưởng trừu tượng. Ngoài biểu tượng hay, còn có biểu tượng thơ mộng hoặc huyền ảo. Vừa hay vừa huyền ảo thì triết học lại càng có chất thơ. Ta có thể nói tư tưởng Phật Giáo là một triết học có nhiều chất thơ (5)
|
Ghi chú: |
(1) Phần này đã đăng
trong Tập san ĐỐI THOẠI của Ban Chấp Hành Sinh Viên Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn (vào khoảng năm 1964 hay 1965 hoặc 1966,
không nhớ chính xác).
(2) Dịch đoạn trên: "Ta đi về một nơi hiu quạnh, chân trời xa vô hạn, bầu trời không gợn mây, cây cối hoàn toàn bất động, không một con thú, không một bóng người, không một dòng nước chảy, khắp nơi sâu thẳm yên lặng; một quang cảnh như vậy dường như mời mọc ta vào sự chiêm niệm và chiêm ngưỡng, hoàn toàn cởi bỏ ý chí và những đòi hỏi của nó" (SCHOPENHAUER, sách đã dẫn). (3) Dịch đoạn trên: "Tác phẩm của thi sĩ càng có tính chất thi ca, và lời nói của nhà thơ càng không bị ràng buộc: tác phẩm càng mở phơi cho sự bất ngờ và càng được đón nhận tốt" (HEIDEGGER, tài liệu đã dẫn). (4) Phần này đã đăng trong báo DÂN CHÚNG của nhà thơ Nguyên Sa, số ra ngày 12 tháng 3 năm 1994, tại Nam California. (5) Xin kèm hai bài thơ sáng tác theo lối văn-ảnh diễn tả cụ thể hai ý tưỏng trừu tượng (theo lối thơ văn xuôi, mong cũng có chút thi-tính): CÁI BÓNG Ở NGOÀI TA Ta tự đặt ra ngoài cái-không-ta (Phi-ngã, le Non-moi) để từ đó quay lại phản-tỉnh ý-thức mình là mình; nhờ biện chứng đi-ra-trở-vào đó nên ta đã sáng tạo làm cho ngoại giới hiện hữu - Theo triết lý Duy-Tâm Chủ-Quan có vẻ dị-thường của Fichte (1762-1814) Lúc bấy giờ trời vừa xế chiều, người là một khối lù lù vô-thức ngồi bất động bên một triền núi nhìn ra ngoài kia có hay không một màu xanh phẳng lì của mặt biển. Ánh nắng hoàng hôn chưa hiện thực nhưng chiếu rọi cái khối vô-thức ấy lên vách đá thành một hình thù hư ảo mà nhờ đó người tạo ra sự tồn tại của mình. Cái bóng đó là do người muốn đặt ra ngoài mình vì tự ý đến ngồi đây nhờ ánh nắng chiếu dọi tạo thành, nên không giống sự thụ-động ngoài ý muốn của các tù nhân do một đống lửa chiếu từ phía sau in hình họ lung linh vào hang đá mà một triết gia thời cổ nào đó đã từng nói tới. Hình tượng khối vô-thức ấy in lên vách đá mỗi lúc một mờ dần, thu nhỏ dần, chứng tỏ tạo vật đang vận chuyển ở trong vòng thời gian, và cái thu mình ngồi đó chiếm lấy một chỗ không gian chứng tỏ người là hiện tượng vật giới. Ý thức mình là thời gian và vật giới nên bây giờ người đã biết mình là ai, biềt mình đang hiện hữu trong cuộc đời. Phản tỉnh nhờ đi ra rồi trở về mình nên cái khối vô-thức cùng cái bóng ở ngoài đứng lên nhập lại thành một người thực sự, và kéo cao cổ áo đi vào thành phố cũng vừa mới lên đèn đây đó... HỒN NHỮNG CON ĐƯỜNG Ý niệm Chân-lý trong triết lý Heidegger chủ trì sự làm quen, tiếp xúc thân thuộc. Chân-lý không thể đạt tới bằng trí hiểu. Như những con đường mòn trong rừng chỉ quen thân với người tiều phu. Chúng tôi còn những con đường ngoại ô của người đàn bà gánh nước nửa đêm bỏ lại phía sau từng vũng chuyện buồn đi về xóm vắng đìu hiu đèn vàng. Chúng tôi còn nghe tiếng nói lam lũ một đời qua hình ảnh người phu xích lô đạp xe đường khuya bóng dáng ngã dài xuống bến trăng xanh. Nếu người từ phương xa đến đây tìm hiểu đất nước này thì xin người tiếp xúc làm quen chứ đừng thả dài trên đại lộ phồn hoa khi hoàng hôn đỏ rực công trường. Bởi vì bề mặt kinh thành không phải là hồn dân tộc chúng tôi mà chỉ là những hình khối mấp mô dựng lên bầu trời, và cùng lắm thì chỉ nghe được tâm sự não nùng của người ca sĩ sầu tình hát khúc buồn tênh. Người phải đi qua những ngõ tối mưa khuya lầy lội có tiếng hát ru con ngậm ngùi tan vào bóng tối trầm tư nửa đêm gỗ đá thì thầm. Hay lắng nghe phần vô ngôn ẩn thể chuyên chở trên lời thơ của người thi nhân lãng tử đêm đêm lướt qua phố phường như một vì sao lạc rồi đi mất dần vào ngõ khói âm vang...
|
|