I.
Có ai ở bên lề cuộc chiến?
Cuộc chiến tranh Việt
Nam trước đây dài và rộng như một cái lưới lồng lộng,
không có gì thoát ra ngoài vòng ảnh hưởng của nó, suốt
ba mươi năm ròng rã (1945-1975). Các thiếu niên ở vào thời
điểm của cuộc chiến 1945-1954, đều trở thành những phần
tử trong tuổi động viên vào cuộc chiến 1954-1975. Có ai ở
bên lề cuộc chiến?
Cái
gì cũng là sản phẩm từ chiến tranh. Ngoài những nhà văn
nhà thơ trực tiếp tác chiến, có những văn nghệ sĩ chưa
từng trực tiếp ra trận dù là quân nhân, và có những nhà
văn dân sự. Điều gì gọi là thực sự đứng bên ngoài thời
kỳ ấy? Đứng bên ngoài là một nhắc nhở đang ở bên trong,
một phản diện của khói lửa. Viết về chiến tranh, văn
học thế giới không thiếu những nhà văn đã từng ở trong
trận địa như R.M. Remarque (Một Thời Để Yêu Và Một Thời
Để Chết), như Ernest Hemmingway (Chuông Chiêu Hồn Ai - Giã Từ
Vũ Khí). Ở ngoài cuộc cũng có những tác phẩm đồ sộ như
của Margaret Michell (Cuốn Theo Chiều Gió). Leon Tolstoi sống
nhiều trong chiến tranh hay đời ông là một miệt mài tìm
kiếm tài liệu lịch sử để hoàn thành tác phẩm "Chiến
Tranh Và Hòa Bình"? Pierre Boulle là chiến sĩ hay nhà báo khi
viết tác phẩm "Chiếc Cầu Trên Sông Kwai"? Văn học Việt
Nam hải ngoại mới đây cũng đã có những tập truyện tầm
cỡ về cuộc chiến vừa qua của ta, từ các ngòi bút cựu
quân nhân cũng như từ những người trước đây làm việc
dân sự.
Những gì gọi là thuần
túy nhất thì cũng đều xuất phát từ chiến tranh, từ ý-thức-hệ
chính trị. Thí dụ những cuốn sách có vẻ thuần túy giáo
dục như tập truyện "Ngôi Trường Đi Xuống" của Vũ Hạnh,
hoặc thuần túy biên khảo về địa phương như Văn Minh Đồng
Bằng Sông Cửu Long (Văn Minh Miệt Vườn) của Sơn Nam, vẫn
có sợi giây chính trị điều động từ bên trong (để đả
phá cái gọi là sự đồi trụy do chủ nghĩa thực dân mới
đem lại, và đề cao "dân tộc tính" phù hợp với chủ trương
của Mặt trận dân tộc giải phóng). Và quả nhiên sau này
ta mới biết Vũ hạnh và Sơn Nam là những cán bộ nằm vùng.
Còn nói gì đến chủ nghĩa hiện sinh do Giáo sư Nguyễn Văn
Trung đầu tiên phổ biến vào văn học miền Nam Việt Nam,
một mục tiêu bị đả kích là thứ triết lý đầu độc
của văn hóa đế quốc Mỹ (thực sự là văn hóa Tây phương,
nhất là Pháp). Còn nói gì đến chủ trương nghệ thuật vị
nghệ thuật của nhà văn Vũ Khắc Khoan (tuyên ngôn tiềm tàng
trong tập truyện "Thần tháp Rùa", một mục tiêu bị đả
kích là thứ văn nghệ phản động chống lại quan điểm văn
nghệ xã hội chủ nghĩa).
Trong thời điểm này,
có những bài viết lẻ tẻ, cá nhân, tùy hứng, như bài "Văn
chương Tươi Mát đã Đi Vào Thời Đại" (đãng trong tuần
báo Khởi Hành, Sài Gòn, trước năm 1975), như"Văn Chương Tìm
Về Viễn Mơ Hay Hiện Thực" (Tạp chí Vấn Đề), như "Văn
Chương Là Văn Chương" (Góp Phần Luận Về Văn Chương Viễn
Mơ) đãng trong Tạp chí Trình Bầy... những bài như vậy chỉ
là vài đám mưa nhỏ rải chút sương khói mờ nhạt xuống
sa mạc chiến tranh. Vì tính chất mông lung của chữ nghĩa,
bất định của ngôn từ, một chủ trương lẻ tẻ tùy hứng
như trên dễ bị đưa đẩy qua nhiều nhận định, có khi là
loại văn nghệ thoát ly ước mơ về thiên thai, có khi là loại
văn nghệ nội tâm Đông phương Đạo giáo, có khi là loại
văn chương thuần túy kiểu phản-tiểu-thuyết (Anti-Roman) chịu
ảnh hưởng của văn học Pháp, và có khi lại là loại văn
chương khoa học giả tưởng kiểu Nguyễn Mạnh Côn... (Xin
đọc bản xếp loại thành sáu hạng văn nghệ của Hội Văn
Nghệ Sĩ Giải Phóng tại Sài Gòn*,
qua bài hồi ký văn nghệ của nhà văn Hồ Trường An: "TiếpXúc
Với Chữ Nghĩa Sau Cuộc Đổi Đời 1975", đãng trong Tạp
chí Làng Văn ở Canada, số 140, ấn hành vào tháng 4 năm 1996).
Còn nữa, khuynh hướng tôn giáo, khuynh hướng yêu chuộng hòa
bình, khuynh hướng tình ái cá nhân, có bị đả kích hay đề
cao theo quan điểm chính trị nào không? Chắc chắn là có.
Cho nên không có văn chương nào ở bên lề cuộc chiến.
*Ghi
chú:
Xếp loại văn nghệ Miền Nam trước 1975 thành
6 hạng như sau, ghi lại đúng như trong hồi ký của nhà văn
Hồ Trường An: - Hạng A gồm những tác phẩm bị gọi là
phản động - Hạng B gồm những tác phẩm bị gọi là đồi
trụy - Hạng C gồm các tác phẩm lãng mạn than mây khóc gió
- Hạng D gồm các tác phẩm thuộc loại "viễn mơ", loại nghiêng
về Đạo giáo - Hạng E gồm các tác phẩm được đánh giá
"tiến bộ" - Hạng F gồm các tác phẩm thuộc loại tốt nhứt,
đứng về hàng ngũ Cách Mạng rõ rệt, công khai hay úp mở
ngắt véo chính quyền Miền Nam.
II-
Thơ Lúc Từ Bỏ Cuộc Chiến
- Từ bỏ cuộc
chiến khác với phản chiến. Phản chiến là thái độ ở
phía chống đối chiến tranh. Còn đây là thái độ trước
ở phía chủ chiến, nhưng sau từ bỏ vì một lý do nào đó.
Lý tưởng chống đối
chiến tranh vì chủ trương nhân bản, chiến tranh là tàn bạo,
lập trường ở ngoài mọi phe phái. Điều này chẳng có gì
lạ, trong Đường Thi cách nay hàng ngàn năm đã nói đến qua
bài "Thạch Hào Lại' của Đỗ Phủ. Bài thơ kể chuyện bắt
lính trong đêm khuya: nhà có hai anh em đi lính đều tử trận,
thiếu lính đến nỗi bà già cũng bị sung công vào đội hỏa
đầu quân, chỉ có ông già trèo tường trốn là thoát quân
dịch.
Trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, phong trào phản chiến ở Mỹ lúc đó là thứ phản
chiến thực sự, vì sự tuyên truyền của khối Cộng Sản
gồm cả Liên Xô và Trung Quốc làm cho thế giới và nhân dân
Mỹ thấy Hoa Kỳ như một cường quốc đổ quân vào một
nước nhỏ, tiến hành chiến tranh thô bạo. Nổi bật trong
phong trào phản chiến ở Mỹ là nữ tài tử Jane Fonda. Nhưng
cách thức Jane Fonda đến miền Bắc Việt Nam trong lúc chiến
tranh, và hát những bài ca phản chiến bên các ổ súng phòng
không gần Hà Nội, hình ảnh đó không thể nhìn như ở ngoài
mọi phe phái mà như là đứng về phía bị gây hấn. Điều
ấy đắc dụng cho phản chiến địch vận, làm cho nhân dân
Mỹ thấy chiến tranh là vô chính nghĩa, là hy sinh vô ích,
là tiêu hao nhân vật lực.
Còn từ bỏ cuộc chiến
hoàn toàn khác hẳn, trong đó bao hàm ý tưởng đã có một
thời tham dự một cách chủ động theo đường lối của chính
quyền, bây giờ cũng theo chủ trương của chính phủ mà rút
chân ra. Chủ trương từ bỏ cuộc chiến có thể vì đã kinh
nghiệm qua chiến tranh Việt Nam là một bãi lầy, hay có thể
vì thế cờ Domino không còn đáng quan ngại (nếu tiền đồn
miền Nam Việt Nam sụp đổ thì khu vực Đông Nam Á cũng không
lâm nguy). Bãi lầy hay thế cờ đã hóa giải, chỉ ở cấp
thật cao mới biết điều nào là đúng. Nhưng việc từ bỏ
cuộc chiến đi xuống cấp dưới, cấp quân sĩ tác chiến,
vào văn chương, thì chỉ còn là những ẩn dụ, càng không
có gì xác thực thuộc lãnh vực thi ca. Từ bỏ cuộc chiến
ở Việt Nam chỉ giản dị như đã chán rồi đặc sản "bamuyba"
(bia 33) của "cô đẹp", như trong bài thơ "Tại Sao" dưới đây:
Tôi đến một
quán ruợu theo lối quen thuộc
Ở đó có một "cô
đẹp", tóc dài thả lưng
Mắt cô long lanh đáp
ứng với những mơn trớn của tôi
Tôi nói yêu nàng,
tôi yêu nàng nhiều lắm.
- Chào Anh, vào đây,
ngồi xuống và cho biết tên
Anh đã ở Việt Nam
bao lâu rồi?
- Tôi đã ở xứ
cô một thời gian dài
Vậy hãy ngồi xuống
bên tôi và nghe tôi nói.
- Tôi đã ngán uống
"bamuyba" rồi
Tôi đã mệt vì cuộc
chiến quá lâu rồi
Tôi đang thu xếp
hành trang để về nhà
Về với bé Vickie,
người con gái tôi mến mộ.
(I went to a bar way down
by the track
There stood a Co-dep, long
hair down her back
Her eyes, how they sparkled
in response to my touch
I told her I loved her,
I loved her too much
Hey you! Come in. Sit down.
What's your name?
How long have you been in
Vietnam?
I've been in your country
the whole live - long day
So sit right down by me
and hear what I say
I'm tired of drinking your
old bamuyba
I'm tired of fighting your
old war
I'm packing my bags and
I'm going back home
To my sweet little Vickie,
the girl I adore).
(Sưu tầm của Susan
Wallace)
Cô gái bán bar và rượu
bia 33 như những biểu tượng về Việt Nam. Đó là những điều
anh lính Mỹ thân cận, nhìn qua như một xứ sở anh tới chiến
đấu. Dĩ nhiên ẩn dụ này không đại diện gì cho ta. Nó
chỉ làm giản dị hóa một cuộc rút chân không giản dị
dễ hiểu, vì còn nhiều bí ẩn chưa bạch hóa.
TRẦN
VĂN NAM
City
of Walnut, California
|