Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]

Bắt gặp những chi tiết hiếm quý trong ký sự phim ảnh

Trần Văn Nam

 (Kể như từ năm1995, những DVD ký sự Việt Nam được đón nhận tốt ở hải ngoại, nay thì có phần phai lạt.Thuở ấy thấy nhiều khách mua DVD loại này, nên người viết cảm hứng hoàn thành được loạt bài gồm có 3 kỳ. Đây là kỳ thứ 3, còn hai kỳ kia đã đăng trong các "Giai-phẩm Xuân Nhật-báo Người Việt" ở Westminster, California, năm 2008 và năm 2009. Hai kỳ đó hiện cũng có trong "www.tranvannam.com").
TRẦN VĂN NAM
Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà Giang độc Bắc lưu
(Mọi con sông đều chảy về hướng Đông
Chỉ có Đà Giang chảy về hướng Bắc)
(Không rõ tác giả)
Tác giả làm các câu thơ trên hẳn chỉ giới hạn cho các con sông tại Bắc Việt mà thôi, vì trên thế giới cũng có những con sông chảy về hướng Tây, hướng Nam, hay hướng Bắc như con sông Đà. Đà Giang khởi nguồn phía Tây thuộc tỉnh Vân Nam bên Trung Hoa, rồi chảy suốt một chiều rất dài về hướng Đông, gần như song song với sông Hồng. Nhưng khi đến vùng Hòa Bình-Phú Thọ-Hà Tây, nơi bao gồm các núi cao cấu tạo bằng loại đá phun trào rất cứng, trong đó có hai đỉnh cao khoảng 1200 mét là núi Ba Vì (còn gọi là núi Tản Viên) và núi Viên Nam, nên nước sông Đà bị chận lại, không thể tiếp tục xuôi về hướng Đông mà phải quặt lên phía Bắc, rồi hợp lưu với sông Hồng tại Việt Trì. Vậy Đà Giang chỉ có khoảng sông từ Hoà Bình đến Việt Trì mới là "Bắc lưu", còn phần lớn sông Đà cũng "Đông tẩu" như sông Hồng. Nước đang chảy dũng mãnh, nhất là vào mùa mưa, mà bị vùng núi cứng chận lại thì làm cao không xảy ra trận chiến giữa núi và nước. Trận chiến vào mùa lũ này đã xảy ra hàng chục triệu năm trước, ngày nay vẫn còn, cao điểm là ngày 13 tháng 7 âm lịch tại ngã ba hợp lưu sông Đà và sông Hồng (tả ngạn là xã Tam Nông tỉnh Phú Thọ, và hữu ngạn thuộc huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Khi định cư ở đây độ ba bốn ngàn năm trước thì người xưa mới bắt đầu đặt ra truyền thuyết trận chiến giữa Thủy Tinh và Sơn Tinh để nói về hiện tượng do hậu quả đột ngột đổi hướng của con sông Đà; và cơn thịnh nộ cũng dần dần dịu bớt sau hàng chục triệu năm trải qua. Đập thủy điện Hoà Bình đã điều hoà mực nước gây lũ lụt tại đây và đem lại lợi ích về điện nước cho vùng đồng bằng trải rộng chung quanh đỉnh Ba Vì và Viên Nam ấy. Nhưng sông Đà rất dài phía thượng nguồn từ biên giới Vân Nam đến Hoà Bình, khoảng sông đó còn quá hung hãn vào muà mưa lũ, nên đang có công trình xây dựng đập thủy điện Sơn La vĩ đại. Nó sẽ làm chìm ngập những làng mạc định cư của các dân tộc Thái, Tày, Mán, Mèo, Hmông... và cuộc tái định cư cho họ cũng vô cùng lớn lao. Người Thái sẽ giữ nguyên mồ mả của tổ tiên họ chìm ngập dưới nước sâu, chỉ đánh dấu địa điểm để hàng năm đến tưởng niệm. Còn người Xá thời xa xưa đã từng có giải pháp đưa quan tài của người chết quàn chơ vơ trên những hang động và vách núi cao, khi họ bị người Thái đến xâm chiếm vùng định cư. Gửi quan tài tổ tiên trên hang động xong, tất cả người Xá đã bỏ đi, không biết ngày nay hậu duệ xiêu lạc đến phương nào. Đó là chuyện lâu lắm rồi. Ngày nay, vì đập thủy điện Sơn La mà nước sông Đà dâng lên khúc sông dài phía trên đập, trong đó có vùng núi Nậm Ma gần thị xã Lai Châu. Sở dĩ vùng này làm ta chú ý vì nơi đó có một vách núi ghi bút tích của vua Lê Lợi, khi nhà vua thân chinh lên đây để đánh giẹp giặc Đèo Cát Hán, và khắc vào đá bài thơ để xác nhận chủ quyền, ghi tháng năm như sau: Đề thơ khắc lên núi trấn giữ phía Tây nước Việt ta - Tháng Chạp năm Tân Hợi (tức tháng 1 năm 1432). Bút tích trên vách đá này sẽ bị chìm ngập, nên đang có dự định đưa nguyên khối núi lên cao, như trước đây đã từng đưa bút tích khác cũng trên đá của vua Lê Lợi, nay bút tích này lưu giữ trong viện bảo tàng tỉnh Hòa Bình. (Xin xem DVD Khám Phá Sông Đà do Thế Giới Ngày Nay sản xuất).
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
(Vũ Hoàng Chương, trong bài thơ Dịu Nhẹ)
Một chút lưu ý, sông lam không viết hoa, chỉ màu nước sông Hồng vào mùa xuân, không phải sông Lam thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa. Có thật nước sông Hồng vào mùa xuân ngả màu xanh, hay chỉ tưởng tương trong tâm trí nhà thơ, chỉ những người ở ven bờ sông Hồng cả bốn mùa mới biết hư thực. Và chỉ có họ mới biết đê sông Hồng ở đâu thì cỏ và liễu biếc chân đê. Các ký sự phim ảnh quay về Hà Nội chỉ thường thấy con sông Hồng khúc có cây cầu Long Biên bắc qua vào mùa khô trơ ra những bãi bồi giữa lòng sông, đôi khi ở góc độ có những mái ngói thấm nâu nhìn suốt qua những nhịp cầu đen xám, góc độ rất khớp với bài hát về Hà Nội của Trịnh Công Sơn hay trong tranh vẽ của họa sĩ Bùi Xuân Phái, không thấy đê sông Hồng ở đâu cả. Chỉ khu vực xã Giáp Nhất ở ngoại ô ta mới có dịp thấy đê sông Hồng thoai thoải xuống mặt nước, cũng màu xanh cỏ nhưng thấy con đê không ngoạn mục lắm. Và chỉ khi đến Hà Tây, nay cũng đã thuộc Hà Nội do ranh giới mở rộng bao trùm cả tỉnh này, đê sông Hồng mới thấy cao như sườn đồi và màu cỏ biếc xanh rờn phủ lên khắp con đê. So sánh với vài con bò đang gặm cỏ trên đê hay người đang đi nhỏ li ti mới cảm nhận sự đồ sộ của con đê ngăn lũ hiện diện đã có từ ngàn năm. Mùa lũ lụt đã bị ngăn chặn từ ngàn năm qua, nhưng phù sa cũng ngàn năm không thể bồi đắp cho đồng bằng. Bao nhiêu màu mỡ đã trôi về đại dương, hoặc tụ lắng ở vùng gần các cửa sông, cho nên hiện tượng đất lấn ra biển chắc mau hơn ở các cửa sông Cửu Long. Vùng biển Thần Phù ngày xưa sóng gió "khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm" lưu lại chứng tích trong một bài ca dao, nay vùng biển Thần Phù ấy đã trở thành đất liền, ở trong nội địa đến tám cây số cách bờ biển, vậy mới rõ việc lấn biển do phù sa sông Hồng mau chóng đến dường nào. Hành trình của Cửu Long trước khi ra biển đã san sẻ phù sa ra cùng khắp châu thổ trong mùa nước nổi, và sở dĩ đất lấn ra biển ở Cà Mau cũng tụ lắng nhiều sau những san sẻ vì nhờ lưu lượng nước sông Cửu Long gấp ba lần sông Hồng, tỉ lệ được kiểm kê cùng vào mùa lũ. Trên Trái Đất, lưu lượng sông Amazone ở Nam Mỹ vô địch, lưu lượng sông Missisipi ở Hoa Kỳ đứng vào hàng thứ hai. Người viết bài này biết được những câu thơ trên khi học lớp Đệ Tam ban Văn chương (lớp 10 bây giờ) tại trường tư thục Hàn Thuyên nằm trên đường Cao Thắng ở Saì Gòn vào năm 1957, do chính thi sĩ Vũ Hoàng Chương đem ra làm bài đọc thêm cho học sinh dịp giáp Tết, chắc ông đang nhớ Hà Nội vì mới rời đi chỉ có ba năm, 1954. Mơ hồ cảm lây cái đẹp ở mùa xuân đất Bắc, mặc dầu lúc ấy chưa hình dung được hoa đào ra làm sao khi nghe tới một câu cũng trong bài thơ ấy: "Mươi bông cúc nõn chờ tay với/ Một chút hoa đào vương gót chân". Con đê dài thì càng không hình dung ra. Con đê cao ven sông Hồng trong thơ Vũ hoàng Chương và "con đê dài ngây ngất" trong bài hát "Tình Hoài Hương" của Phạm Duy cũng phổ biến đồng thời, bây giờ không lạ gì đối với việc du lịch dễ dàng, còn như chưa thấy ở thực địa, thì vài DVD cũng đã ghi nhận được cảnh quang con đê cao xanh rờn cỏ biếc, một đoạn ngắn thôi nhưng gây ấn tượng cho ta là nó chạy dài ngây ngất. (DVD "Hà Nội Ngày Nay", Rainbow Entertainment sản xuất).
Nhớ một sớm mẹ ơi
Tiễn con bên ngõ vắng
Rồi từ đó tháng năm
Cổng làng mẹ ngóng trông
Đợi con về đỏ mắt...
Nửa đời đã xa quê
Cổng làng đón tôi về
Cổng xưa thì vẫn thế
Mà vắng bóng mẹ tôi.
(Thơ Quách Đông Phương)
Hình như cổng làng mới có ở Miền Bắc, còn ở Miền Trung và Miền Nam thì ranh giới cư trú giữa hai làng mơ hồ, nhất là ở Miền Nam sông rạch chằng chịt, địa giới làng chỉ các hương chức mới biết rõ đất nào thuộc làng nào. Làng ở Miền Bắc có biên giới rõ rệt, được bao quanh bởi lũy tre hay bờ đê cao. Đường vào làng phải qua một cái cổng bằng gạch xây. Cổng làng đã có từ lâu đời, nên cổng nào cũng rêu phong trên tường gạch, nhiều cổng cây cổ thụ bám rể phủ chụp xuống, dính chặt vào tường thành một khối vững chắc, trông thật cổ xưa. Trước đây ta đã thấy trong phim truyện Chị Dậu thể hiện cuốn tiểu thuyết Tắt Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, và trong phim truyện Thương Nhớ Đông Quê thể hiện một truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Qua hai phim truyện ấy, ta thấy cổng làng đóng kín vào ban đêm, sáng dẫn trâu ra đồng cũng phải đợi người mở cổng làng; hoặc đã là nơi tập hợp cuộc lên đường nhập ngũ, ra khỏi cổng làng kể như đã ra khỏi cuộc sống quen thuộc thơ ấu. Trong khi ở Miền Trung hay Miền Nam thì không như vậy, điều ta thắc mắc là tại sao "Đàng Trong" không xây dựng làng theo khuôn mẫu "Đàng Ngoài", phải chăng do tính chất địa lý thiên nhiên, hay do chính sách khuyến khích tự do tìm đất sống thời khai hoang mở cõi của các Chúa Nguyễn. Làng không còn phải là đơn vị phòng thủ nữa nhờ dân cư đã ổn định, mà làng ở "Đàng Trong" chỉ là đơn vị quần cư mở ra tiếp đón người đi khẩn hoang. Chính sách khuyến khích tự do di dời tìm đất khẩn hoang cách nay ba bốn trăm năm đã thành khuôn mẫu xây dựng làng ở Đàng Trong, thừa kế cho đến bây giờ (Nay tất cả người trong nước coi như đã định cư, cho dù vẫn còn vài đợt di trú ở Tây Nguyên). Trước 1975 ở Miền Nam, nếu nói sự kiểm soát cư trú lơ là thật không đúng lắm. Nhớ ở Sài Gòn hay ở các thành phố lớn, đêm đêm cảnh sát vẫn hay gõ cửa kiểm soát người trú ngụ coi có đúng với người khai trong sổ gia đình hay không, mục đích truy tầm đặc công đối phương xâm nhập thành phố, đôi khi cũng tìm được vài thanh niên trốn quân dịch. Thời chiến tranh ở thôn quê, sự kiểm soát nơi cư trú càng nghiêm ngặt, nếp sống như vậy cũng gần hai muơi năm, vậy mà Miền Nam vẫn không làng nào có cổng. Một thời có chính sách lập "Ấp Chiến Lược", một thời có kế hoạch "Khu Trù Mật", nhưng rồi cổng ấp chiến lược, cổng khu trù mật đều đã không thành hình, cũng như cổng làng không hề hiện diện ở Đàng Trong. Rồi ngay sau năm 1975, sự kê khai hộ khẩu để bán nhu yếu phẩm cũng là sự kiểm tra cư trú chặt chẽ, ai cũng cần nhu yếu phẩm trong thời kỳ khan hiếm, cho nên ai cũng phải minh bạch số người ở trong nhà. Cư trú tại miền quê ra vào khai báo, nhưng cổng làng vẫn không thấy cần thiết làm biểu tượng cho chính quyền làng xã. Riêng ở Nam Bộ vì sông rạch chằng chịt, số người lấy ghe thuyền làm nhà sống rày đây mai đó với nghề đánh bắt tôm cá trên sông lớn, hoặc làm nghề mua đi bán lại sản phẩm miệt vườn, chắc đó cũng là yếu tố tạo ra hiện tượng chẳng tha thiết vào ra cổng làng. Di sản văn hóa cổng làng phải tìm về Miền Bắc, nơi có những cổng làng xưa đến ba bốn trăm năm. Ký sự phim ảnh nhắc nhở người Miền Bắc những kỷ niệm, kỷ niệm thời thơ ấu chơi trò đánh đáo dưới bóng mát cây đa, kỷ niệm rằm trung thu chiếu xuống sương khói huyền ảo của cổ thụ trăm năm, kỷ niệm tiễn biệt hay trùng phùng với người về, kỷ niệm một ngày mới trâu ra cổng làng... (Xin xem DVD "Việt Nam Ngày Nay 9", Đông Đô Productions).
Tiếng ai mềm mại thân thương quá
Em nói, nghe như người sông Lam.
(Thơ Huy Trâm)
Sông Lam thuộc tỉnh Hà Tĩnh, con sông ngắn nhưng khá rộng ở một đoạn chừng 20 cây số khi chảy ra biển, còn trước đó chỉ là một nhánh nhỏ ngược lên phía Bắc nhập vào con sông Cả thuộc tỉnh Nghệ An. Khúc sông tuy rộng mà ngắn ấy nên dường như không thấy ghi chú trên bản đồ nào, dù là bản đồ cỡ lớn của Việt Nam ấn hành năm 1999 do Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt -Bộ Quốc Phòng; hay bản đồ Việt Nam cũng cỡ lớn nhiều chi tiết của Tạp chí National Geographic, ấn hành năm 1967. Nhưng khúc sông rộng ghi bằng nét vẽ thì bản đồ nào cũng có. Khúc sông Lam ngắn, khá rộng và rất đẹp thấy qua ký sự phim ảnh. Trông nó thật êm đềm với tả ngạn là dãy Hồng Lĩnh chạy song song ở chân trời, đỉnh cao nhất là ngọn Hồng Sơn cao 700 mét, trên đó có chùa Hương Tích. Chùa không lớn, nhưng chùa này là khuôn mẫu để xây dựng Chùa Huơng ở Miền Bắc thuộc tỉnh Hà Tây (theo ký sự phim ảnh). Dãy núi Hồng Lĩnh có 99 ngọn, theo tương truyền mà thôi. Với thuật phong thuỷ, người Việt thường đặt địa danh theo những con số huyền bí hơn là đúng sự thật, có thể dãy núi ở đây nhiều hơn hoặc ít hơn 99, cũng như Cửu Long thật sự chỉ có 8 nhánh khi ra tới biển. Thuộc tỉnh Hà Tĩnh, kiến trúc kỳ vĩ mới đây là đền thờ thi hào Nguyễn Du, tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, có bản chỉ dẫn bên đường rất dễ tìm ra nơi vinh danh cùng mộ địa đại thi hào. Huyện Nghi Xuân gần biển nằm bên hữu ngạn sông Cả, bên kia bờ là địa phận tỉnh Nghệ An. Hà Tĩnh cũng là nơi quê quán của các nhân vật lịch sử có đền thờ như Mai Thúc Loan (lên ngôi vua năm 722); Lê Bôi (dũng tướng của vua Lê Lợi), Phan Đình Phùng (anh hùng thời khởi nghĩa Cần Vương chống Pháp), Lê Lợi (vua sáng lập triều Lê, khởi nghiệp gian nan với cuộc khởi nghĩa tại Lam Sơn chống quân Minh đô hộ). Lam Sơn ở đâu trong tỉnh Hà Tĩnh? Theo tác giả Lê Bá Thảo trong cuốn "Thiên Nhiên Việt Nam, nhà xb. Khoa Học và Kỹ Thuật ấn hành năm 1977", Lam Sơn là vùng "các thung lũng nhỏ và hẻm nằm song song với sông Cả và dãy núi 99 ngọn". Hà Tĩnh là nơi có ngọn đèo Ngang nổi tiếng qua bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan. Gọi là đèo ngang vì đó là dãy núi từ phía Tây đâm ngang ra biển, không hiểm trở lắm, chỉ cao 256 mét. Đèo Ngang hay Hoành Sơn theo chữ Hán Việt, phải chăng đây là nơi gợi ý cho câu nói khuyên giòng họ Nguyễn đi lập nghiệp ở phương Nam, khởi nguồn cho cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn suốt hơn 200 năm trong lịch sử Việt Nam: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Nhưng Trịnh Nguyễn không lấy Hoành Sơn làm ranh giới mà lấy sông Gianh thuộc tỉnh Quảng Bình khá xa về phía Nam làm biên cương. Đại Giang (thường lầm là sông Gianh) chảy qua Đồng Hới ra biển ở cửa Nhật Lệ. Còn bản đồ Việt Nam của National Geographic Magazine in năm 1967 ghi sông Gianh là Chiang, và bản đồ do Việt Nam ấn hành đã kể trên ghi sông Gianh là Rào-Nạy với phụ lưu sông Tróc. Hoành Sơn không cao không hiểm trở nên không đóng vai trò ranh giới phân chia quyền lực của hai phe tranh chiến, nhưng Hoành Sơn lại đủ cản trở để làm ranh giới phân chia khí hậu: "Những đợt gió mùa Mùa Đông đến đây đã suy yếu, phải khó khăn lắm mới vượt qua được dãy núi này, do đó mà khí hậu Hà Tĩnh và Quảng Bình chỉ cách nhau hơn 10 km, rất không giống nhau" (Lê Bá Thảo, sách đã dẫn). Xin xem DVD để thấy sông Lam êm đền, dãy Hồng Lĩnh kỳ ảo dài theo chân trời, đền thờ của các anh hùng, và đền thờ thi bá lưu danh của thế giới (DVD Du Lịch Việt Nam, đĩa thứ 2, đề mục Danh Sơn Hồng Lĩnh, do Star Music Productions).

Một đoạn trong "Việt Nam Sử Lược: "Người Chiêm thấy tình thế nước Nam suy nhược, có ý khinh dễ, cho nên qua năm Mậu Thân 1368, vua Chiêm cho sứ sang đòi đất Hóa Châu... vua Trần Dụ Tông chỉ lo việc hoang chơi, không tưởng gì đến việc võ bị; mà ở bên Chiêm Thành thì có Chế Bồng Nga là một ông vua anh hùng..."
(Trần Trọng Kim, trong "Việt Nam Sử Lược", quyển 3, chương 10).

Việc dự định đòi lại đất này xảy ra 61 năm sau ngày vua Trần gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân (sính lễ quan trọng vua Chiêm dâng lên cho vua Đại Việt là hiến tặng Châu Ô Châu Lý, tức Quảng Trị và Thừa Thiên bây giờ). Thấy nước Nam suy yếu, Chế Bồng Nga đòi lại Hoá Châu. Vậy Hoá Châu là ở đâu, có tầm mức chiến lược ra sao mà Chế Bồng Nga nhắm tới tối ưu như vậy? Ta thường biết Hoá Châu là Thừa Thiên ngày nay, tìm hiểu qua ký sự phim ảnh ta mới rõ thêm Hoá Châu là một thành lũy kiên cố nằm tại ngã ba hơp lưu sông Hương và sông Bồ, trước khi sông Hương chảy ra Phá Tam Giang. Thành Hoá Châu nay gần như mất dấu, chỉ còn lại vài vết tích được xác định do những nhà khảo cổ. Hóa Châu còn có tên là Thành Lồi (không rõ Lồi do phát âm từ tiếng Chàm, hay lồi là do dư ảnh về một thành lũy kiên cố có những tường vách nhô ra gồ ghề). Du khách đến đây chắc không còn thấy gì, ngoài một bản lớn ghi bằng ba ngôn ngữ Việt Anh Pháp: "Thành Lồi -Thanh Loi Ancient Wall - Ancienne Muraille Thanh Loi". Không còn gì, nhưng ở vị trí đóng chốt tại ngã ba Hương Giang-Bồ Giang và gần bờ biển như vậy, thì ta cũng đoán thành lũy này để phòng vệ xâm lăng từ Đại Việt hay từ Trung Hoa (Quân Mông Cổ đã từng kéo quân từ biển đến đánh phá Chiêm Thành). Xâm lăng từ phía Tây, từ Kampuchia, thì có lẽ quân Khmer thường mượn đường sông Mekong rồi xâm nhập vào vùng Phan Thiết-Phan Rang ngày nay (nhớ không lầm thì sử sách có ghi Thánh Địa Mỹ Sơn của người Chiêm ở Quảng Nam ngày nay đã từng bị người Khmer tàn phá- đất Quảng Nam xa như vậy thì quân Kampuchia đến từ hướng nào?). Một điều làm ta lưu ý nữa là sông Bồ và Sông Hương (chỉ riêng nhánh Hữu Trạch) đều bắt nguồn từ vùng rừng núi A-Lưới (còn nhánh Tả Trạch của sông Hương bắt nguồn từ vùng Nam Đồng, đây cũng là vùng núi non Trường Sơn). Vậy phía Tây Thừa Thiên tuy là rừng núi nhưng có dân cư sinh sống nương theo bờ các con sông; và cả hai sông Bồ và sông Hương chảy thành vòng cung lớn bao bọc chung quanh một vùng phải đông đảo dân cư nên người Chiêm Thành mới xây dựng Thành Lồi đồ sộ, khóa chặt đường xâm nhập từ biển để bảo vệ một trọng điểm dân cư. Từ đó ta suy ra Châu Lý chẳng phải vùng hoang dã mà vua Chế Mân hiến tặng (không như Thủy Chân Lạp mới thực sự là hoang địa khi vua Kampuchia hiến tặng cho chúa Nguyễn nhân dịp cưới được công chúa Ngọc Vạn). Từ đó ta cũng suy ra, dù Chiêm Việt đã thành xuôi-gia thì cũng đã có không ít người Chiêm Thành rời bỏ Thừa Thiên (Châu Lý), nếu không muốn nói là một cuộc di-cư lớn do nhường đất, vì nơi đây không còn là miền thuộc tổ quốc Chiêm Thành. Đòi lại thành Hoá Châu không được, Chế Bồng Ngă đã từng thân chinh đi đánh Đại Việt, có lần theo đường bộ mà tiến ra, có lần xuôi theo sông Hồng mà tấn công Thăng Long, để rồi tử trận trong cơn hỗn chiến. Hình như ngày nay không có Tháp Chàm nào thờ Chế Bồng Nga, có lẽ thi hài không đem về được để làm lễ hỏa táng (phải chăng là như vậy?). Nhà thơ Chế Lan Viên có bài thơ ngậm ngùi trước "Điêu Tàn" của thành Đồ Bàn, nhạc sĩ Xuân Tiên cũng có bản nhạc "Hận Đồ Bàn" rất hay, nhưng chưa có sáng tác nào nhắc nhở đến thành Hoá Châu hay Thành Lồi nay đã mất dấu tại Ngã ba sông Hương và sông Bồ. Di tích khảo cổ đáng quan tâm, vì đây là tiền đồn dòm ngó Biển Đông được người Chiêm canh chừng cẩn mật thời xa xưa (Xin xem DVD Cảnh Đẹp Việt Nam 4: Sông Hương, do PD Productions).

Trên dốc Hòn Hèo ngồi nhìn xuống
Ninh Hòa, Diên Khánh, hay Cam Ranh
Buồn nghe rải rác mồ nằm trắng
Đá thẳm chồm lên lưng đá tanh.
(Thơ Xuân Phụng)
Ta nghĩ chắc tác giả đoạn thơ trên đã tưởng tượng khi viết xuống, chứ thực sự chưa hề tới Hòn Hèo. Hòn Hèo là một đảo nhỏ nằm trong vịnh Vân Phong. Vịnh nước sâu rất kín gió ở phía Bắc Nha Trang độ ba bốn chục cây số, và Hòn Hèo ngang với thị trấn Ninh Hòa trong đất liền. Thời chiến tranh Pháp-Việt Minh, cư dân làng Phong Thạnh gần Ninh Hòa đôi khi thấy máy bay Pháp từ Nha Trang ra bắn phá Hòn Hèo, vì Hòn Hèo gần với đất miền rừng sát dãy Trường Sơn, đã là nơi tiếp nhận vũ khí do ghe xuồng bí mật tới từ Chiến khu Bốn của Việt Minh (thuộc Bình Định- Phú Yên), và hải quân Pháp thời đó cũng không đủ lực lượng tuần tiểu. Vịnh Vân Phong kín gió, nước rất sâu với đảo Hòn Lớn nằm như chắn cửa vào vịnh, quanh vịnh có khu du lịch Dốc Lết và xưởng đóng tàu biển đồ sộ của Đại Hàn. Người địa phương có câu thành ngữ tiên đoán thời tiết sắp xảy ra. Họ cứ nhìn ra biển hể thấy hiện tượng mây đen quần trên đảo trong vịnh như đội nón như mang áo tơi, càng rõ nét thì mưa bão càng nặng nề: "Hòn Hèo đội nón, Hòn Lớn mang tơi". Những câu khác chỉ thời tiết cũng thường nghe ở Khánh Hòa như "Tháng mười, ông chẳng tha bà chẳng tha", nói đến mùa mưa lớn trong một năm, hình dung nhiều sấm chớp do thần ông thần bà nổi cơn giận dữ... Có vẻ do tưởng tượng, khi tác giả nói là từ Hòn Hèo thấy suốt tới Cam Ranh ở gần cuối ranh giới tỉnh Khánh Hòa về phía Nam. Ban đêm, họa may từ Hòn Hèo ngoài biển nhìn vô đất liền thấy được ánh điện của thành phố Nha Trang. Phải đứng trên những đỉnh núi Trường Sơn nằm dọc dài ở phía Tây nhìn xuống mới có thể thấy bao quát thấu suốt từ Ninh hòa phía Bắc cho đến Cam Ranh ở phía Nam, như mô tả trong bài thơ. Con đường xe lửa Xuyên Việt cũng chạy dọc dài qua mảnh đất này. Ai đã từng ở vùng này, làm sao không gợi cảm khi xe lửa đến ga Ba Ngòi, đậu lại chừng nửa giờ cho hành khách xuống xe vào quán thưởng thức đặc sản sò huyết rất ngon ngọt của Cam Ranh gần đó; làm sao không nhớ xe lửa chạy qua vùng trồng cây thuốc lá và sát bờ biển khá cao ở Lương Sơn; làm sao không nhớ đường xe lửa như chạy trên con đê dài qua ruộng đồng qua làng mạc, qua lắm cầu đúc xi măng (vì các suối nước tuy nhỏ nhưng có thật nhiều từ sườn của Trường Sơn quanh năm đổ ra biển). Trên hành trình qua Miền Nam Trung Bộ, đường bộ cũng như đường xe lửa, cảnh vật mang lại cho ta những xúc cảm do gợi nhớ về các câu thơ một thi sĩ nào đó đã làm nên bất hủ, mặc dù thực địa chỉ khiêm tốn mà thôi, như sông Mường Mán trong thơ Nguyễn Bắc Sơn: "Sông Mường Mán không dung hào kiệt/ Ngàn đời bóng núi đứng chênh vênh"; hay như tại ngả ba Phan Rí khi xe đò ngừng lại cho hành khách vào quán ăn trưa, thấy trong nắng trong gió cát bóng thiếu nữ Chàm mặc áo choàng màu lá chuối non, thấy sao mà tội nghiệp nơi miền đất khắc khổ. Nó gợi lại cả một thời thành quách huy hoàng với các cung nữ Chiêm Thành. Thật cảm hoài khi trên đường xuôi ngược Nha Trang- Phan Rang, lúc ngang qua hai tháp Chàm nhỏ sát bên đường, tháp Hoà Lai do vua Chế Mân xây năm 1307, xây xong thì vua mất. Tháp nhỏ mà gợi đến cái nhớ lớn: Huyền Trân công chúa được vua cha Trần Nhân Tông gả cho vua Chế Mân này đây. Bây giờ tháp hoang phế, nhiều sứt mẻ bởi gió cát bờ biển sát gần, cảnh quang làm ta ta mường tượng thấy có bóng vua và hoàng hậu cùng đoàn tùy tùng cờ lộng mờ ảo đi tham quan trong sương mù. (DVD "Rong Chơi Miền Duyên Hải" do Vina Productions, và DVD "Nhịp Sống Ba Miền 15" do T&T Productions).
Chiếc cầu thang bao nhiêu lần lên xuống
Xuống hay lên cũng ngần ấy bực rời
... Khu trường rộng một bãi lầy quá lớn
Ta thấy mình ngày một lún sâu thêm.
(Hạc Thành Hoa: Bậc Thang Thứ Nhất) * ở nhà trọ Sa Đéc
Chủ ý đề cập đến vài hiếm quý bắt gặp ở một ký sự phim ảnh, nhưng qua thơ Hạc Thành Hoa làm cho người viết bài nhớ lại con sông thân mật chảy qua Sa Đéc, đó là một nhánh từ Tiền Giang rẽ vào thành phố, nhánh sông vừa phải nên phố lầu hai bên sông trông thấy rõ nhau. Nhất là phố lầu bên này buôn bán sầm uất, mùa xuân thầy giáo cô giáo dẫn học sinh đi lấy quảng cáo không khó khăn, nhờ vậy mà ấn phí in báo Tết cho trường được trang trải. Bên này, tức là phía bên có nhà trọ của nhà thơ Hacï Thành Hoa (anh người Thanh Hóa, có một số thơ đăng trên Tạp chí Văn, thời chủ bút là Trần Phong Giao; tên thật làNguyễn Đường Thai; giáo sư Việt Văn ở vài trường Thị xã Sa Đéc. Tập thơ anh được in lại năm 2006 do Thư Quán Bản Thảo ở New Jersey). Chỗ trọ của anh trong thành phố Sa Đéc là một căn nhà cổ, khá đồ sộ; căn phòng phía anh mướn chắc bỏ lâu ngày và có trần nhà rất cao nên vài con dơi đến trú ngụ cùng người. Cứ hoàng hôn trời vừa sụp tối, anh lấy cây sào tre dài, quất qua quất lại phía trên trần thì thế nào cũng có vài con dơi trúng sào mà rớt xuống. Thành phố Sa Đéc bây giờ rất nhiều người trên thế giới biết đến, nhất là người Pháp, nhờ cuốn phim "The Lover" (phổ biến năm 1992) quay vài bối cảnh tại đây, và có vườn hoa quy mô mà Tổng Thống Pháp Jacques Chirac từng đến thăm (khi ông còn là đô trưởng Paris từ 1977 đến 1995). Mặc dù vườn hoa hồng này quy mô, xuất khẩu hoa hồng sang vài thị trường thế giới, có đến 1500 gia đình nương tựa nhờ nghề trồng hoa tại đây; nhưng cựu Tổng Thống Pháp có lẽ muốn đến Sa Đéc cho biết trường Nữ Tiểu Học tại thị xã, nơi mẹ của nhà văn Marguerite Duras dạy học tại đây trong thập niên 1920. Ngôi Trường Nữ Tiểu Học bây giờ thấy qua phim ảnh được chăm sóc khang trang, vì là điểm thu hút du lịch nhờ cuốn phim The Lover (Người Tình - L'amant). Mẹ của nữ sĩ (Marguerite Duras có tên trong văn học Pháp) là một người Pháp nghèo, không phải giàu có như phần lớn thực dân Pháp tại Việt Nam trước đây. Nhà văn Marguerite Duras (sinh năm 1914 tại Gia Định, mất năm 1996 tại Paris) còn có cuốn sách cũng từ bối cảnh Đông Dương, cuốn "Con đê ngăn cản Thái Bình Dương" (Un barragecontre le Pacifique), nói về gia đình Pháp kiều nghèo khổ của cha mẹ bà có một thời phải canh tác sinh sống nơi cánh đồng nhiễm mặn ở gần biển, mà chính quyền thực dân Pháp lúc đó cũng lơ là không giúp đỡ. Còn cuốn Người Tình (The Lover - L'amant) là tiểu thuyết gần như tự truyện đời của bà lúc mẹ làm cô giáo ở Sa Đéc, bà lên trọ học ở Sài Gòn, có người tình là một công tử người Hoa ở Chợ Lớn; với lần đầu làm quen trên chuyến phà qua sông Cửu Long ở bắc Mỹ Thuận. Coi cuốn phim, ta thấy gần gũi do nhà làm phim Pháp đã nhờ nhà văn Sơn Nam cố vấn về bối cảnh và cách ăn mặc của người Việt ở Miền Nam thời thập niên 1920; gần gũi với cảnh học tiểu học ở Sa Đéc, cảnh nhộn nhịp kiểu xưa trên phà qua sông Mekong, cảnh sáng tinh sương và tửu lầu sang trọng nơi phố Tàu Chợ Lớn, cảnh nữ sinh Pháp trọ học ở Sài Gòn; cảnh tàu viễn dương rời bến tại bờ sông Sài Gòn... Phố Sa Đéc ngày nay, Marguerite Duras, Trường Nữ Tiểu Học xưa, ngôi nhà khá giả của công tử người Hoa thuở trước tại thị xã này, vườn hoa hồng quy mô ngày nay ở Sa Đéc, xin xem hai DVD: Mekong Ký Sự tập 17 tiểu tập 72 (do TL productions), và DVD: Du Lịch Việt Nam, đĩa 2, đề mục Về Đồng Tháp (do Star Music Productions).
Thuyền xuôi Châu Đốc
Thả xuống Vàm Nao
Thẳng tới Ba Sao
Coi chừng nước chảy.
(Ca Dao)
Nếu sông Mân Thít thông giao ở chỗ khoảng cách rộng nhất giữa hai dòng Hậu Giang và Cổ Chiên (một nhánh chảy song song của Tiền Giang), trong địa phận hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre; thì đoạn hẹp nhất giữa hai dòng Tiền Giang-Hậu Giang được thông giao bằng sông Vàm Nao ở trên thượng lưu, thuộc tỉnh An Giang. Sông Vàm Nao chỉ dài độ hai cây số, nhưng rộng không kém Tiền Giang hoặc Hậu Giang. Tương truyền, thuở trước sông Vàm Nao chỉ là con đường trâu lội từ bờ dòng này sang bờ dòng kia. Vào mùa nước nổi, cuồng lưu từ Kampuchia đổ xuống Cửu Long, phân phối nước lũ vào đường mòn, cứ xé rộng và đào sâu nó thành con sông rộng. Bây giờ cứ mùa lũ (hay mùa nước nổi) thì sức mạnh thiên nhiên này vẫn tiếp tục, chỗ nước Tiền Giang và Hậu Giang dồn vào và gặp nhau tạo thành vùng nước xoáy dữ dội tại Ba Sao. Nơi này còn có tên rất chữ nghĩa do người giỏi Hán Tự đặt ra là Hồi-Hoa-Thủy (Nước-Xoáy-Tròn). Có thể tin là ngày xưa nó là con đường trâu lội, căn cứ theo truyện ngắn "Mùa Len Trâu" của Sơn Nam: mùa nước nổi đàn trâu đi tránh lũ di chuyển hàng hai ba trăm con. Trâu của mỗi nhà ở vùng trũng An Giang được cho chăn dắt cùng một lúc, tập hợp lên vùng cao để tạm trú quanh Bảy Núi. Cỏ thì phải đi cắt đi mua để nuôi chúng. Lội hàng trăm con qua thời gian tiếp diễn thì làm sao đường mòn không biến thành sông, lại thêm sức đào sâu do nước dồn của hai dòng sông lớn. Sông Vàm Nao đã đủ rộng trang trải bớt nước dồn, nhưng đến chỗ Ba Sao tàu ghe vẫn rất thận trọng. Nằm trên trục Tiền Giang và đối diện nhau hai bên sông Vàm Nao là xã Hòa Hảo phía trên và xã Chợ Mới phía dưới. Trên và dưới theo hướng thượng lưu và hạ lưu sông Cửu Long. Xã Hòa Hảo, nơi phát sinh Phật Giáo Hòa Hảo của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, khởi thủy vào năm 1939. Gần xã Chợ Mới và ở giữa dòng Tiền Giang là Cù Lao Ông Chưởng rất lớn (ta nghe tưởng nhỏ do từ ngữ cù lao). Cù lao, hòn, đảo, cồn ở trên sông, mỗi địa phương ở Việt Nam hiểu khác nhau theo cách dùng quen cho từng miền. Ví dụ Cồn Hến khá lớn trên sông Hương thì gọi cồn, nhưng những mảnh đất nổi gần đó chỉ nhỏ thôi mà gọi là đảo. Những đảo khá lớn trên Vịnh Thái Lan xung quanh Cà Mau thì người địa phương quen gọi hòn, như Hòn Rái, Hòn Tre, Hòn Khoai, Hòn Nam Du... Tương đương diện tích, sao không gọi Cù Lao Ông Chưởng là cồn như Cồn Phụng (Phoenix Island), Cồn Lân (Unicorn Island, còn có tên Cồn Thới Sơn) trên sông Tiền Giang (chỗ đang xây Cầu Rạch Miễu bắc qua sông Tiền Giang xuyên suốt qua hai cồn). Đủ độ vững chắc để gánh chịu những trụ lớn cho cầu xuyên qua Cửu Long, xem như vây thì cồn bề thế tương đương với đảo. Cù Lao Ông Chưởng (thiển nghĩ nên gọi là Cồn Ông Chưởng), tên đặt để tưởng niệm Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh (chức vụ có lẽ tương đương như Thống Soái, Đại Tướng). Thừa lệnh Chúa Nguyễn đem quân đi dàn xếp những bất ổn nội bộ ở triều đình Nam Vang, xong nhiệm vụ Nguyễn Hữu Cảnh trở về nghỉ dưỡng quân tại Cù Lao này. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh (đại thần thời Chúa Nguyễn, quê quán Quảng Bình) rải rác khắp nơi ở Miền Nam, như tại Chợ Lớn, Châu Đốc, Long Xuyên, Biên Hòa... Bất cứ đâu có bóng dáng ông trên bước đường phục vụ ở Miền Nam, như chỗ ông dừng lại đóng quân, chỗ ông ghé thăm dân tình, chỗ ông thọ bệnh và mất... nhất nhất đều có đền thờ nhớ công ơn ông vạch đường đi mở cõi phuơng Nam. "Chiều chiều quạ nói với diều/ Cù Lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm", ca dao xưa nói về sự ê hề sản vật thời còn là Thủy Chân Lạp sình lầy chướng khí, lúc vừa mới được Hoàng Hậu Ngọc Vạn cho dân Việt đến khai khẩn lập nghiệp. Ngọc Vạn là con gái Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả cho vua Kampuchia, và vua này chỉ coi trọng vùng đất cao Lục Chân Lạp mà thôi. Nhưng của cải thiên nhiên khai thác quá mức và thiếu kế hoạch bảo vệ sinh sôi trong môi trường tự nhiên, bây giờ không ê hề nữa, phải đổi chiều đánh bắt thiên nhiên sang nuôi dưỡng thủy sản. (DVD "Việt Kiều Về Quê Ăn Chơi 9" do Vina Productions, và DVD "Mêkông Ký Sự", số 16, tiểu tập 70).
Linh đinh bèo nước biềt về đâu
Đậu bến An Giang thấy những rầu
Bảy-Núi mây liền, chim nhíp cánh
Ba dòng nước chảy, cá vênh râu
(Phan Văn Trị)
Những câu thơ trên của Phan Văn Trị làm ta bị ám ảnh mơ hồ cảnh trời nước mênh mông trong mùa nước nổi (là mùa nước lớn hằng năm từ Biển Hồ dồn về sông Mekong ở Kampuchia, rồi dồn về hai nhánh Tiền Giang-Hậu Giang, tràn ngập vào hai vùng trũng lớn ở An Giang và Đồng Tháp Mười). Nhờ thấy cụ thể qua các ký sự phim ảnh mới đây nên ta không còn mơ hồ tưởng tượng. Các ký sự phim ảnh, có cái quay hậu cảnh là dãy Bảy-Núi (Thất Sơn) xa xa ở chân trời, tiền cảnh là những hàng cây thốt nốt ngập đến lưng chừng thân cây; có cái quay rõ ràng khi xe hơi chạy trực diện Núi Cấm (ngọn núi cao nhất của Thất Sơn) với hình dạng một khối khá dài như nửa vỏ đậu phộng nằm úp xuống; có cái thì quay từ núi Cấm nhìn xuống kinh Vĩnh Tế vạch một đường dài làm biên giới giữa Kampuchia và Việt Nam. Nước lũ từ vùng trũng Đồng Tháp Mười sẽ phân phối vào Tiền Giang, vào sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Nước lũ từ vùng trũng An Giang sẽ phân phối về nhánh Hậu Giang, mặc dù Hậu Giang vĩ đại nhưng cũng không kham nổi, cho nên vùng trũng An Giang đành tháo bớt nước về hướng Tây nuơng nhờ vào thế đất thoai thoải chảy vào Vịnh Thái Lan. Phải chăng đây là sự phí phạm trầm trọng nước ngọt vì chưa có hồ chứa nước vĩ đại nào tích trữ để dành cho mùa khô hạn? Thực sự Thất Sơn có khá nhiều núi hơn là chỉ có bảy núi, con số bảy có vẻ huyền bí theo thuật phong thủy. Cũng như ta thường bắt gặp những con số ước chừng thuộc về viễn cảm, chẳng hạn trong lời tiên tri: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Còn các nhà thơ thì thường thi hoá các con số có dư âm sâu thẳm như "nghìn xưa nối nghìn sau" (sự thực nghìn còn quá nhỏ so với hơn bốn tỉ năm tuổi của Trái Đất); hoặc có dư âm hùng vĩ như "trường giang vạn dặm" (thực sự trên Trái Đất không có con sông nào dài đến mười ngàn dặm, dài nhất là sông Amazon ở xứ Brazil chỉ có 3900 dặm). Núi Cấm ở Thất Sơn cao hơn 500 mét, có 200 gia đình sinh sống trên núi cho dịch vụ du lịch. Trên đỉnh núi Cấm có hòn đá lớn nhô lên chơ vơ gọi là Vồ-Đầu, đó là nơi giao nhau giữa Trời và Đất; người ta đến đó để cúng Cửu Huyền Thất Tổ (con số chín cũng gợi biết bao thần bí). Người viết bài đã có lần di chuyển trong vùng này, bằng đường xe hơi chạy quanh co, nhưng cũng có khi trực diện với núi Cấm ở xa xa nên thấy nó như nửa vỏ đậu phộng úp xuống, rồi xe chạy qua các làng mạc sát biên giới Kampuchia; qua các nhà cận bên đường, nghe toàn tiếng nói lạ tai và thấy nhiều chùa tháp rực rỡ kiểu Khmer, nên biết dân cư ở đây đa số là người Việt gốc Miên. Và chẳng bao lâu thì xe đến xã Ba Chúc, nơi có chùa kiểu Việt và khu tưởng niệm lớn để lưu giữ hài cốt của mấy trăm dân làng người Việt đã bị quân Pol Pot tràn qua tàn sát. Ta từng đã đọc vài truyện ngắn rồi mường tượng cảnh mênh mông trong mùa nước nổi ở An Giang; hoặc đã từng coi phim "The buffalo boy" quay cảnh thực của mùa này ngay ở vùng Bảy Núi, nay có thêm ba ký sự phim ảnh quay thêm nhiều khía cạnh của miền trời nước bao la đó, nhờ vậy sự hình dung trong tâm trí ta chắc sẽ được điều hợp. (Từ Núi Cấm nhìn xuống An Giang, có trong DVD "Việt Kiều Về Qưê Ăn Chơi số 13" do Vina Productions; hậu cảnh Thất Sơn ở chân trời trong mùa lụt, có trong DVD "Du Ngoạn Miền Tây số 1" do Trống Đồng Entertainment sản xuất; và đi xe trên đường để trực diện Bảy Núi, có trong DVD "Du Ngoạn Miền Tây Sông Nước Miền Nam số 1" do Rainbow sản xuất. [Phần 1 và phần 2 của loạt bài này, xin xem ở http://www.tranvannam.com].
TRẦN VĂN NAM
City of Walnut, California, tháng 8 năm 2009