Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
I / LỤC BÁT TẬP TRUNG. |
Trong tác phẩm
lục bát trường thiên như Truyện Kiều, ta có thể tìm được
rải rác khắp các trang những câu thơ lấp lánh, vì vậy ta
không hề thấy lối cấu trúc tập trung xuống hai câu thơ
cuối như ở những bài lục bát ngắn. Hầu hết các thi sĩ
làm thơ lục bát ngắn đều áp dụng diễn tiến của kết
cấu này. Khi thì hai câu cuối là một hình thức nào đó của
phép tu từ, khi thì hai câu cuối cho ta một ấn tượng bàng
bạc xa xôi, hoặc một âm hưởng mịt mờ vang vọng. Ta lấy
ví dụ trong thơ lục bát Nguyễn Đức Sơn:
Tôi về lắng
cả buổi chiều
Hai câu thơ cuối đạt chất thơ dù không nhờ phép tu từ nào. Nguyễn Đức Sơn giúp ta tìm lại giây phút kinh nghiệm khi nằm dài thanh thản trên mặt đất, lúc ấy ta như cảm thấy linh hồn nhẹ bay lên. Đề tài trong thơ Nguyễn Đức Sơn thường nghiêng về siêu hình, như dưới đây là một người đang ngồi khóc trên đồi. Đồi này là đồi hư không, đồi của một hành giả hiện sinh sau khi cảm nghiệm cái vô lý mình đang tồn tại ở đời: "Tôi hiện hữu do ngẫu nhiên vì sự gặp gỡ của cha mẹ, ngoài ý muốn của tôi" (Tư tưởng này có trong triết lý Hiện Sinh, phổ biến vào sách báo miền Nam Việt Nam vào những năm 1960 đến năm 1968 gì đó...). Đây là tiếng khóc muốn rời bỏ nhân thế, không muốn hệ lụy với đời, khác với đoạn trên là những liên hệ xã hội tính: Nhiều khi đợi
nắng chiều tan
Trước khi tiếp nhận ảnh hưởng của triết lý Hiện Sinh, Nguyễn Đức Sơn tỏ ra rất thâm cảm thơ Thiền, Văn Học Thời Lý Thời Trần với các bài kệ ngắn của các Thiền Sư. Thơ Nguyễn Đức Sơn là những giao lưu giữa mỹ cảm và thiền cảm mà vùng biển Nha Trang thường là nguồn cảm hứng vãng lai. Ngoài thơ, các truyện ngắn của Nguyễn Đức Sơn cũng bàng bạc thiền vị, bàng bạc mỹ cảm, bàng bạc triết lý Hiện Sinh, như viết về cái chết rong rêu dưới đáy hồ im vắng; cái chết cho xong một đời mệt mỏi của những con vật trôi sông với xương bày trắng hếu tắp vào một cù lao xa khuất; nổi loạn chống lại đám người ồn ào dưới phố khi họ kéo nhau ra xem một cách bất nhân trước cảnh con chuột cống bị thanh sắt đâm qua thân, nó đi khệnh khạng ngang qua đường, sắp chết. Thật ra đó là nổi loạn chống lại xã hội, không phải nổi loạn hư vô chủ nghĩa hay nổi loạn vô chính phủ. (Nguyễn Đức Sơn, trong sách "Cát Bụi Mệt Mỏi" "Cái Chuồng Khỉ", "Bến Tắm Ngựa" do nhà xuất bản An Tiêm và Lá Bối). Trở lại bàn về Thơ Lục Bát với cấu trúc tập trung xuống hai câu cuối. Bài thơ dưới đây, Nguyễn Đức Sơn tập trung bằng phép tu từ, thể cách so sánh. Thời thơ ấu của Nguyễn Đức Sơn, đời sống riêng trong gia đình, có dấu ấn đi vào thơ như một vết thương. Nhờ trực cảm tiếp xúc với điệu buồn mưa cao nguyên, giọt đều mái lá, cây rừng chuyển động khi nhìn ra trước nhà, nên các câu ở đoạn giữa mới là những câu hay, vượt khỏi sự ưu ái dành cho cuối bài: Êm êm chiều
xuống ngập lòng
Thơ cảm hứng thiên nhiên của Nguyễn Đức Sơn, thiền vị là một điều tất yếu. Nhưng nếu có dịp cảm hứng về cuộc sống thông tục, Nguyễn Đức Sơn cũng không để lỡ dịp hướng về ý tưởng siêu hình, và cũng không quên lối cấu trúc tập trung ấy: - Buồn sao như
dạ héo hon
- Nắm tay lật
úp đi con
Bài thơ "Nhìn ConTập Lật" thiên về ý tưởng trừu tượng, bài "Tiếng Ru Em" thiên về hình tượng cụ thể. Ta nghĩ thơ nên nghiêng về cụ thể, vì ý tưởng nếu đạt, ta chỉ có bài thơ lạ; còn hình tượng nếu diễn thật tới thì sẽ cho ta bài thơ mỹ cảm giao lưu với thiền cảm, hoặc mỹ cảm giao lưu với thần cảm. Nhà văn Võ Phiến thường chú trọng đến những bài thơ có một giọng điệu đặc biệt riêng, ví dụ bài "Tống Biệt" của Thâm Tâm với giọng điệu khinh bạc; bài "Một Ngày Nhàn Rỗi" của Nguyễn Bắc Sơn với giọng điệu nghênh ngang; bài "Bọt Nước" của Nguyễn Đức Sơn với giọng điệu của niềm đau dằng dặc. Ta có thể thêm, bài thơ "Bài Hành Phương Nam" của Nguyễn Bính với giọng điệu chua chát tình đời, bài "Anh Hùng Tận" của Tô Thùy Yên với giọng điệu khệnh khạng say rượu trước giờ lâm trận không biết sống chết sẽ ra sao; bài thơ "Gởi Quà" của Luân Hoán với giọng điệu chán ngán cuộc sống cơm áo và bất đắc chí ở xứ lưu vong... Giọng điệu thường đến với các nhà thơ mà không do một sắp xếp trước. Trong khi làm thơ, giọng điệu tự nhiên đến với thi sĩ, trào ra ngẫu nhĩ dưới ngòi bút. Cho nên những bài thơ có sắp đặt mang tính cấu trúc, như thơ lục bát với bố cục tập trung xuống hai câu thơ cuối cùng, thường không tạo ra được một giọng điệu, chỉ là những bài thơ nghiêng về mỹ cảm. Thơ lục bát nếu có một giọng điệu đặc biệt phải ở ngoài ý thức về cấu trúc, ví dụ rất hiếm hoi trong thơ Nguyễn Đức Sơn nhưng cũng đã có, đó là bài "Một Mình Nằm Thở Đủ Kiểu Trên Biển" mang giọng nghịch ngợm, tuy vậy vẫn có vẻ triết lý: Đầu tiên tôi
thở cái phào
Mới đây, một số bài thơ lục bát của Nguyễn Đức Sơn từ trong nước gởi ra, đăng trong tạp chí "Thế Kỷ 21" (tháng 11-1993), với những ý tưởng rất đả phá chống đối chế độ; cùng những bài thơ về tư tưởng Phật Giáo đã làm trước đây (Hình như trong tập thơ "Đêm Nguyệt Động") được tạp chí cho đăng lại, Nguyễn Đức Sơn không ngần ngại dùng những từ ngữ thông tục táo bạo, nói về cái màn trinh nữ như giảng đạo về sự đắm chìm vào vô minh. Tuy nhiên vẫn không phạm thượng tôn giáo, mà còn sáng tạo ra chất thơ mới, chưa ai so sánh được như vậy từ trước, bởi vì tác giả chỉ có ý muốn nói chính cái màn đó làm cho ta hệ lụy, say đắm quá sẽ làm tiêu luôn đường về Niết Bàn. Tác giả dùng thể thơ lục bát rất chặt chẽ về vần điệu, không cần dùng đến vần lệch để có thể phóng khoáng, và cấu trúc vẫn là diễn tiến tập trung quen thuộc. Khuôn khổ, nhưng không phải là không sáng tạo được những điều mới: Em đang thay áo
trong phòng
Nghịch ngợm, táo bạo, đả phá, nổi loạn, nhưng thực chất sâu thẳm của Nguyễn Đức Sơn là thơ hướng về nghệ thuật, nói rõ hơn là thơ thiên về mỹ cảm giao lưu với Thiền cảm. Trong chiều hướng đó, thơ Nguyễn Đức Sơn có nhiều bài đạt tới độ tuyệt diệu, như bài "Mai Kia" mà người viết bài này muốn giới thiệu ở đoạn kết thúc để thưởng thức. Bài thơ vừa có những lời giản dị, vừa có những từ ngữ lóng lánh. Tứ thơ thì thanh thản, một ngày nào kia con lớn lên, cha sẽ già, rồi tan biến vào hư không đời đời: Mai kia tan biến
hận thù
Như trái cây chín thì có lúc mùi, phải rụng khi vô cùng mật ngọt. Lục bát kiểu tập trung như vậy trở thành thông lệ, được nhiều thi sĩ nhắm tới vì có tác dụng gây dư vang ấn tượng vào tâm hồn độc giả. Nhiều nhà thơ cũng đã ý thức về thông lệ trên, nên những câu hay có vẻ tu từ pháp, hoặc xa xôi bàng bạc, hoặc mịt mờ âm hưởng, được đưa vào đoạn giữa. Cái gì quen thuộc cũng trở thành đường mòn, tuy không phải là đường mòn khuôn sáo vì có khi thi tứ rất sáng tạo, chẳng lặp lại của ai, nhưng cũng là "đường mòn của kỹ thuật" làm thơ lục bát. |
II / THỂ CÁCH THƠ ĐỐI THOẠI. |
Làm sao tránh được
sự sơ sài khi viết về một tác giả nổi tiếng mà bài viết
chỉ giới hạn trong một hai trang báo. Ngoài cách kể vài kỷ
niệm hay vài giai thoại quen biết với tác giả để đóng
góp một chút tư liệu liên quan đến cuộc đời, qua đó soi
rọi sự hiểu biết về văn thi nghiệp - muốn giúp gì thêm
thì chỉ còn cách là từ một bài thơ hay một đoạn văn của
tác giả, nhân đó bàn về vấn đề văn chương có tính cách
tổng quát. Ví dụ viết về nhà thơ Thanh Tịnh thì không thể
trong một bài báo quá ngắn nhìn được dù chỉ vài khía cạnh
trong tổng thể thi nghiệp của Thanh Tịnh. Vì vậy nhân bài
thơ "Mòn Mỏi" của ông, ta bàn về thể thơ đối thoại, một
thể thơ tưởng đã lãng quên nhưng đôi khi còn thấy xuất
hiện trong văn chương Việt Nam hải ngoại hiện nay. Thể thơ
đối thoại thường được áp dụng ở những thi phẩm trường
thiên như Truyện Kiều hay Lục Vân Tiên, trong đó gồm nhiều
nhân vật với nhiều dịp đối thoại với nhau qua diễn tiến
của một câu chuyện dài, lắm tình tiết, làm nên thứ tiểu
thuyết văn vần. Thể đối thoại ít khi dùng trong bài thơ
ngắn, vì nhà thơ thường độc thoại, có khi còn làm đại
diện nói giùm cảm nghĩ của người
khác: Nếu anh còn trẻ
như năm trước
Khi làm thơ với cấu trúc gồm hai nhân vật thì có ba cách: Một là đặt câu nói nhân vật vào hai dấu ngoặc kép, như trong bài thơ "Đi Chùa Hương" với lời cô gái và lời của chàng trai thỉnh thoảng được ghi nguyên văn bằng thể thức trên, còn tất cả là lời tác giả như một kẻ thứ ba đứng ngoài cuộc. Hai là dùng một dấu gạch ngang ngắn, như trong bài "Tình Già" của Phan Khôi: lời của người tình già 25 năm gặp lại thỉnh thoảng được chen vào, ngoài ra là lời của Phan Khôi như một kẻ đang chứng kiến câu chuyện. Bài thơ "Tình Sầu" của Huyền Kiêu là điển hình của thể thơ đối thoại với cách áp dụng dấu gạch ngang ngắn dành cho lời của một người trong cuộc: Xuân hồng có
chàng tới hỏi
Hạ đỏ có chàng
tới hỏi
Thu biếc có chàng
tới hỏi
Đông xám có
chàng tới hỏi
Đoạn cuối bài thơ của Huyền Kiêu thật u buồn nhưng không đến nỗi bất ngờ, vì ta có thể đoán trước điều gì tác giả muốn nói qua diễn tiến của thời gian bốn mùa, nằm trong chủ đề có tính cách siêu hình - đôi khi ứng nghiệm nhưng không phải thường hằng - nhưng thi nhân thường làm nguồn cảm hứng: chủ đề hồng nhan bạc phận. Ta chợt nhớ đến một cuốn phim Thụy Điển, chiếu ở Việt Nam vào thập niên 1960: "Nàng Chỉ Ca Múa Trong Một Mùa Hè" (Nhan đề tiếng Việt của cuốn phim là "Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè" dịch từ Pháp ngữ "Elle n'a dansé qu'un seul été", và từ tiếng Thụy Điển "Hon dansade en sommar").Không đến nỗi bất ngờ nên bài thơ của Huyền Kiêu chưa mang vẻ kịch tính của thể đối thoại. Bài thơ "Mòn Mỏi" của Thanh Tịnh có được điều này. Và đến đây ta nói cách thức thứ ba trong thể đối thoại: mỗi đoạn thơ dành cho lời nói của từng nhân vật, đối đáp nhau một cách thứ tự. Ngôn ngữ thơ của Thanh Tịnh trong bài này như thuộc về thời "Chinh Phụ Ngâm", lùi xa hơn giai đoạn thơ mới tiền chiến mà ông đang ở trong dòng, có lẽ vì ông muốn trở về ngôn ngữ xưa cho thích hợp những hình ảnh cổ thời: ngựa hí sa trường, chinh phụ thềm rêu ngóng chồng, xưa nay chinh chiến mấy ai về: Em ơi nhẹ cuốn
bức rèm tơ
Bên rừng ngọn
gió rung cây
Ô kìa! Bên cõi
trời đông
Này lặng em ơi,
lặng lặng nhìn
Ngựa hồng đã
đến bên hiên
Thể thơ đối thoại tưởng chừng đã lãng quên vì ít ai dùng, bẵng đi một thời gian dài, nay gặp lại, ta có cảm nghĩ như tìm được một cuốn sách cũ trong nhà kho không người lai vãng. Với thể cách đối thoại bằng từng đoạn như bài thơ trên, ta lại thấy trong bài thơ "Tại Sao": Những đối thoại giữa cô gái bán bar Việt Nam và anh lính Mỹ trước giờ lên đường về nước. (Xin xem tạp chí Khởi Hành số 12, bài thơ do Susan Wallace sưu tầm trong "250 Years Of Wartime Love Letters", không thấy ghi tên tác giả bài thơ). Khởi điểm là bài thơ "Mòn Mỏi", nhân đó lại bàn về một vấn đề văn chương: Thể thơ đối thoại. Như vậy muốn viết về Thanh Tịnh mà thật ít lời. Không còn cách nào khác hơn khi người viết không có ý định viết thành bài nghiên cứu hay nhận định tác giả, chỉ nương nhờ một khía cạnh trong thơ để cảm nghĩ về văn chương.
|
(Kèm theo dưới đây 5 bài thơ lục-bát thể-cách tập-trung) |
NHỚ THỜI GIA-LONG
TẨU QUỐC
Nhớ xưa, từng
ở ven sông
NGÀY VÔ NHIỄM Cát đâu ai bốc tung trời (Thơ TẢN ĐÀ) Chiều không khói,
ngày không mây
CẦU MỸ THUẬN, CẢM TẠ NGÀY ĐI QUA Từ bờ Mỹ Thuận
mênh mông
(*Đức-Tôn trở
lại tên cũ là Cái-Tàu-Hạ sau năm 1975)
THUNG LŨNG SAN GABRIEL Con nai thuở trước
còn không
(*Thung lũng San
Gabriel ở Nam California, Mỹ quốc)
TRĂNG-MÁI NGÀN NĂM Sống quen phường
phố sáng trưng
TRẦN VĂN NAM
|
|