Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ]
Sóng
từ trường II
Nguyễn Bình Phương |
Nguyễn
Bình Phương sinh ngày 29/12/1965 tại thị xã Thái Nguyên. Trong
chiến tranh, gia đình sơ tán về xã Linh Nham, thuộc huyện
Ðồng Hưng, tỉnh Thái Nguyên. Ðến năm 79 mới trở về quê
quán. Học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ đội.
Năm 1989 thi vào trường viết văn Nguyễn Du. Ra trường đi
công tác một năm tại đoàn kịch nói Quân Ðội. Sau đó làm
biên tập viên nhà xuất bản Quân Ðội cho đến nay, với
cấp bậc đại úy .
Bắt đầu viết văn từ những năm 86-87. Những sáng tác đầu là những tập thơ Khách Của Trần Gian (trường ca, nxb Văn Học, 1986), Xa Thân (1997), Lam Chướng (1992). Có viết một số tiểu luận và truyện ngắn, trong đó có truyện Ði, in trên Văn Nghệ Trẻ (số ra ngày 10 tháng 1 năm 1999) đã gây dư luận khá xôn xao. Sau cùng là một loạt tiểu thuyết: Vào Cõi (nxb Thanh Niên, 1991), Những Ðứa Trẻ Chết Già (nxb Văn Học, 1994), Ngườì Ði Vắng (nxb Văn Học, 1999), Trí Nhớ Suy Tàn (nxb Thanh Niên, 2000). |
Khuynh
hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những Ðứa
Trẻ Chết Già
Trong quan
niệm cổ điển, những người viết truyện thần kỳ thường
đứng riêng một phía, như Liễu Trai Chí Dị Bồ Tùng
Linh, như Truyền Kỳ Mạn Lục Nguyễn Dữ.
* Dân tộc
Maya coi mình phát xuất từ ngô -Maya-mais. Ngô là mẹ đẻ nhà
văn Miguel Angel Asturias, Guatemala, Nobel 67. Asturias đã bám rễ
vào tổ tiên bên ngoại để xây dựng "hiện thực thần
kỳ" hay "hiện thực huyền ảo" của mình bằng ngôn ngữ
bên nội: tiếng Tây Ban Nha, tiếng của người cha conquistador
đã chiếm đoạt, cưỡng hiếp, diệt chủng Mẹ Maya, đẻ
ra Guatemala-Asturias. Asturias, từ rễ da đỏ, chồi lên cách
suy tưởng Maya: Tại sao thổ dân Maya lại có thể thấy một
tảng đá lớn hóa thành người khổng lồ, hoặc một đám
mây biến thành tảng đá? Bởi họ nghĩ bằng hình ảnh.
Họ nhìn sự vật -tạm gọi là thực tại thứ nhất- qua một
kích thước mộng mơ, rồi những mộng mơ đó biến thành
hình thể sờ mó được, chúng tạo ra một thực tại thứ
nhì: Thực tại huyền ảo.
Với tiểu
thuyết Những Ðứa Trẻ Chết Già Nguyễn Bình Phương
dường như muốn đưa hiện thực huyền ảo vào văn học Việt.
Ðó là một thử nghiệm đáng trân trọng.
* Vẫn bầu
trời và mảnh đất Thái Nguyên, còn có một hiện thực khác:
"Không khí ảm đạm và lưu cữu. Hoàng
hôn trung du bao giờ cũng rề rà mệt mỏi. Những quả đồi
chầm chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Ðôi chỗ, chè
hoang mọc xanh đậm lên tận chóp đồi. Hương chè nhả ra,
chát đặc." (trang 17)
* Nguyễn
Bình Phương biểu dương chuyến đi của người chết bằng
chiếc xe trâu, một hình ảnh rất Ðông phương, với
một gã đánh xe cha truyền con nối, gầm gừ hai tiếng "vắt,
diệt", những âm thanh bí mật, có thể là tiếng rừng
núi Thái Nguyên, mà cũng có thể là tiếng người thời trước,
tiếng âm người trần không hiểu.
"Ngày 21, sông Linh Nham cạn sạch. Ao nhà bà Liêm tự dưng đầy ắp nước, trong ao có con cá trê đỏ to bằng bụng chân, mắt mù, đuôi dài như chiếc khăn phu-la" (trang 90)hoặc: "Bà giáo có chửa và sinh con đầu lòng [...] Nó là trai. Người ta phát hiện ra rằng con bà giáo có râu. Không những thế, ba bốn ngày sau, tóc nó bạc trắng. Ðứa trẻ không khóc, nó dương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét." (trang 58)Tất cả những "điềm" gở này là những cơn mộng chờ diễn giải. Nhìn trực từ con mắt "mê tín" của người dân quê, có nghĩa khác, mà nhìn chéo từ con mắt "tỉnh táo" của một nhà sử học, xã hội học, lại có những ý nghĩa khác. Những quái thai, những khốc liệt, những biến hình đổi dạng trong đời sống... chẳng qua chỉ là thực tại, chiếu dưới những góc độ quan sát khác nhau, mơ mộng khác nhau, ngay cả sự chung sống giữa người sống và người chết. Asturias hay Marquez không sáng chế ra hiện thực huyền ảo. Họ chỉ viết lại thực tế của Châu Mỹ La Tinh, nơi mà những người dân da đỏ (theo Asturias, có người đã "ăn giấc ngủ" của mình để hóa thành đất) vẫn ướp xác người thân đã chết, trong vị thế tĩnh tọa, tới ngày lễ, giỗ, con cháu bê các cụ (đã ướp) ra ngồi chơi, xơi nước, ăn cỗ chung với lũ trẻ. Trong đầu óc người dân quê Việt Nam, cõi âm không sống trực hệ thể xác với cõi dương như thế, mà gián cách trên bàn thờ, trong cây đa, cây đề, ở núi Ông Voi, hang Ông Tạ... Trong thế giới đó, thiên nhiên cất giấu những linh vật, âm vật của trần thế để tạo ra những "điềm" và mỗi dân tộc có một cách "giải điềm" khác nhau. "Ngọn Rùng đen thẫm in trên nền trời. Khói hương bốc ngùn ngụt. Ngay cả tiếng thầm thào ở gốc si cũng biến mất như kẻ tuân theo một mệnh lệnh nghiêm khắc." (trang 59) Miền Linh Nham, Núi Rùng, có thật hay là một vùng tưởng tượng? Thái Nguyên đầy đủ yếu tố để phát triển thực tại huyền ảo: diễn biến của nhiều thế hệ sống và chết giao nhau trên mảnh đất này. Mọi hành động đều như tuân theo một lời nguyền có từ nhiều đời trước. Những nhân vật còn sống và đã chết, đều ít nhiều là những kẻ ham hố trong cuộc đời. Họ tìm của, tìm vàng, tìm hạnh phúc, tìm tự do, nhưng rồi đều bị cuồng lực của hung hãn, thô tục, bạo tàn, lôi cuốn vào những cuộc chiến thảm khốc, phi lý. Ở đây, không có cảm thông giữa người và người, mà là không khí nghi ngờ, đối đầu triền miên, giữa cha con, chồng vợ. Phũ phàng trong đối thoại, cộc cằn trong đối xử. Tàn phũ bao trùm cả cõi âm lẫn cõi dương. Con người mất liên lạc với nhau. Ông nói gà, bà nói vịt. Ở đây, là thế giới chiến tranh không ngừng giữa người và người. Dã man. Bạo hung. Tàn nhẫn. Những miếng đời chặt ra, xương xẩu, vấy máu, không có sự thông thương đồng cảm. Ở một thế giới như thế, loạn luân và tội ác là tất yếu. Mọi việc đều bí bí, mật mật, đến cả cỗi rễ của gia tộc, cũng trở thành mật bí, làm sao tránh khỏi anh em giết nhau hoặc giao hợp với nhau, mà không biết rõ ai là ai? Vai trò
của tưởng tượng, trong một tác phẩm như thế, có thể
tung hoành vô tận, bởi tất cả mọi tình huống đều khả
thể.
"Cái chết bao giờ cũng là điều vĩ đại cuối cùng mà con người đạt đến. Bao nhiêu năm nay, con người cứ khao khát thanh thản, khao khát tự do, bình đẳng, khao khát cả nỗi cô đơn tịch mịch nữa? Những điều đó đều nằm trong cơ thể của cái chết." (trang 173)Những bạo tàn, tranh chấp, chiến tranh xẩy ra trên mảnh đất Linh Nham này, thảy đều vô ích, phi lý. Hạnh phúc phải chăng chỉ là con thú lạ. Con linh vật mà người ta không biết và người ta chờ đợi, rình rập, ở đây là con nghê, và khi nó đến, người ta giành giật, cướp đoạt làm sở hữu để mở cửa kho tàng. Khi đã chặt được đầu nghê thì sự chiếm hữu trở thành phi lý: hạnh phúc đã bị tiêu diệt, và con người, chết đi để gặp nhau ở một cõi khác. Lại bắt đầu hành trình sục kiếm và đấu tranh để tìm một bến bờ không có trong cõi âm, chẳng có trong cõi dương. Bởi lẽ: không có bến bờ. Và cuộc đời ngàn năm vẫn chỉ là điều không sao hiểu được. * |
Tính
chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiểu thuyết Người
Ði Vắng
Tiểu thuyết
Người Ði Vắng, tác phẩm thứ nhì của Nguyễn Bình
Phương, in năm 1996, bốn năm sau cuốn Những Ðứa Trẻ Chết
Già, đem lại cho người đọc một kỳ ngạc, kỳ ngộ
pha lẫn kỳ vọng, bởi, sau Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
có lẽ đây là tác giả thứ ba trổi dậy trong vòng 15 năm
nay, như một giá trị khai phá đích thực.
Người
ở đây không còn giá trị độc tôn, luôn luôn nắm
quyền sinh tạo, như trong cái nhìn cổ điển. Người ở đây,
chỉ là một phần tử, có tiếng nói, hoặc không có tiếng
nói, cũng như, vật giới xung quanh. Nói khác đi, đối với
Nguyễn Bình Phương, lá chuối, cục đất, mặt đất, sấm,
chớp, mưa, mây, ban mai, con mọt, con bò, con sâu răng, con rồng,
con đom đóm, không khí, sương mù, đôi giầy, cây nhãn, cây
tùng, ánh sáng, thai nhi, cái chuông, cái chậu... đều phát
ngôn, đều "hành động", tác dụng vào môi trường, có phản
ứng như một thực thể tồn tại, không khác gì con
người. Tính chất đa giọng, đa âm của tiểu thuyết lộ
rõ một cách khá triệt để, trong tác phẩm.
* Mảnh đất
Thái Nguyên, quê hương tác giả, với những đại ngàn âm
u, trùng điệp, bí mật, là mảnh đất linh ứng truyền đời,
phù động để tác giả dựng nên hành trình về cái chết
của mỗi "nhân vật" trong tác phẩm (chữ nhân vật hàm
nghĩa: người, vật và hiện tượng). Bởi chính hành trình
về cái chết là mục đích tối thượng của vạn vật,
cao nhất và đáng nói nhất.
* Vào truyện, Nguyễn Bình Phương cho xuất hiện những nhân vật chủ động đầu tiên: Mưa rào và sấm, và đây là chân dung của "họ": "Mưa xuân ắt phải khác mưa rào. Mưa xuân buồn bã phơ phất lang thang như người mộng du mặc áo xám đi trên đồng vắng bãi thưa. Nhưng đây là mùa hạ, dù thích hay không mưa rào vẫn có mặt ồn ã hào phóng chẳng khác gì một gã trai đẹp mã nhưng hơi ngu độn, nông cạn. Mưa rào lấp lánh ngân nga tiếng chuông. Sấm gừ gừ ở chốn cao xa, uyển chuyển hệt như con mèo thoắt lui về thoắt phóng ra, soãi hai chân trước, móng co cứng lại cào lên tấm vải bạt đã cũ rích nhưng còn khá bền. Mưa rào thực sự là một đám rước." (trang 9)Nguyễn Bình Phương dùng những hình ảnh đặc biệt sống động để tả chuyển động của sấm: uyển chuyển hệt như con mèo, thoắt lui về, thoắt phóng ra v.v... và nền trời được nhìn như một tấm bạt vải đã cũ rích nhưng còn khá bền. Một nghệ thuật tạo hình mới vừa xuất hiện: hoạt hóa và linh hóa những thực thể tưởng như không hoạt động, không linh hồn. Cách viết này bao trùm tác phẩm, bất kể vật thể hay trạng thái, đều có thể có một đời tư, một tính cách, một thân phận. Thí dụ: "Tiếng mọt đang rào rào nghiến ngấu [...] làm ngôi nhà ngứa ran lên" (trang 21), "giữa đống thư có một giọng cất lên nhỏ đều đều và buồn" (trang 110), "cơn đói màu xanh đen lồng lộn trong dạ dày thoát lên cổ, ra khỏi mồm rồi lại tụt xuống" (trang 115). "Cương giẫm phải cành khô, nó kêu răng rắc rồi oải ra thành nhiều mảnh vụn" (trang 36), "căn phòng dãn ra, rộng mênh mông nhưng không có tầm nhìn" (trang 43), "cánh hoa héo đang ngả sang màu khoai tây rán rúm ró đau khổ" (trang45), "trong bóng tối, chiếc điện thoại ở cạnh giường tỏa ra ánh lân tinh xanh mờ, nó rung rẩy theo nhịp chuông tựa như con mèo thở" (trang 23). Và đây là lời tâm sự của dòng sông Linh Nham, mà có thể cũng là một phát ngôn ngạo mạn của thời gian: "Ta vươn qua lớp lá mục chồng chéo hàng vạn đời. [...] Thời gian thắng thế chỉ vì biết kiên nhẫn. Ta trong suốt lướt êm ru qua mặt trời qua trăng, trên những đám mây mờ tỏ đôi khi ai đó còn quên lại một bàn cờ màu gụ [...] Ta róc rách miên man, yêu những buổi mai khi ánh sáng chưa kịp tỏa rạng trên vạn vật với làn da xanh trong của cơ thể không hình hài đột nhiên hiển hiện giữa sương sớm mát dịu và thanh khiết. Xa xửa xa xưa có một thằng bé tên là Thắng đã tắm trong ta..." (trang 48)Ðôi khi lại là giọng đối thoại của một hậu thân nói chuyện với tiền kiếp: "Mày là tao ngày xưa phải không?" (trang 165) Ðôi khi là cả một bức tranh hoành tráng, siêu thực và đầy chất thơ, cảnh những đứa trẻ chăn trâu tha ma, vàng mã, ăn quả cậm cam: "Cậm Cam chín vào tháng sáu, những chùm quả nhỏ xiu óng ánh trong sắc xanh nhạt ẩn dưới các mặt lá. Tầm ấy trẻ trâu mò ra, chúng đi theo tốp, mỗi tốp hai ba đứa, sục sạo một cách hờ hững, ngứt những chùm quả ăn ngay tại chỗ rồi nhìn nhau cười đắc chí. Trong im lặng mênh mông của bãi tha ma chiều, tiếng bọn trẻ lúc ngân nga, lúc rời rạc đứt quãng. Những đứa trẻ gầy gò nhưng rắn rỏi bền bỉ, quần áo xộc xệch vá chằng vá đụp, bóng chúng hòa lẫn bóng những lùm Cậm Cam đổ dài trên cỏ được bao phủ bởi màu vàng xộm của nắng. Mỗi đứa trẻ di chuyển đều gây ra một cảm giác kỳ ảo như ở thế giới khác, thế giới chỉ hiện diện sau khi người ta nhìn thật kỹ vào đồ vàng mã. Tiếng rứt quả xoàn xoạt. Một thằng bé đặt chùm Cậm Cam lên lòng tay xòe ngửa giơ trước mặt ngắm nghía với con mắt thỏa mãn. Chùm quả rung lên trên tay nó, những chiếc cuống vươn dài cong xuống vì sức nặng mơ hồ của quả, mỗi quả nhỏ tròn như mắt cá chuối đính vào một chiếc cuống, nhiều chiếc cuống đính vào một chiếc to tạo thành một bản nhạc dập dềnh trôi nổi vượt qua sự kiểm soát của lý trí. Chỉ có vẻ đẹp của kỷ niệm mới cân bằng với vẻ đẹp của trái Cậm Cam. Chiều không đi về chân trời như người ta vẫn tưởng, chiều lăn vào Cậm Cam. Lũ trẻ trâu biết được bí mật đó, với sự tinh quái, chúng xơi tất cả các buổi chiều sau đó trâu đứa nào về nhà đứa ấy, đứa nào ngủ trên giường đứa ấy nhưng giấc mơ thì luôn giống nhau" (trang 172-173)Nhiều đoạn văn hiện thực linh hoạt và thơ mộng như trên dàn trải trong tác phẩm. Trước tiên là một hiện thực trần thế. Lũ trẻ chăn trâu, ăn quả cậm cam trong những buổi chiều mùa hạ. Nhà văn đã âm hóa chúng khi gắn bó với thực tại: chúng xuất hiện ở bãi tha ma, chúng từ một thế giới vàng mã. Quả cậm cam -có những "chiếc cuống vươn dài cong xuống" có "hình tròn như mắt cá chuối"- đã trở thành "nhân vật" có chuyển động, có linh hồn và với "nhiều cuống nhỏ đính vào một cuống to" tạo thành một "bản nhạc dập dềnh", thì cậm cam dẫn ta vào tưởng tượng siêu thực "vượt qua sự kiểm soát của lý trí" để so sánh vẻ đẹp của trái cậm cam với vẻ đẹp của kỷ niệm, một thật, một mộng. Tiếp đó là nhận định "chính xác": "Chiều không đi về chân trời như người ta vẫn tưởng, chiều lăn vào cậm cam" để đưa đến một nhận xét thần tình: "Lũ trẻ trâu (có thể là ma, ma trâu) biết được bí mật đó, chúng ăn cam tức là chúng đã xơi tất cả các buổi chiều." Thật ít có một hình ảnh nào đẹp, nên thơ, huyền hoặc, hư ảo mà lại chính xác đến thế. Ðây là một trong những đoạn văn khá tiêu biểu cho tính chất hiện thực linh ảo, âm dương, của tác phẩm. Những đoạn văn như thế lôi cuốn người đọc, phải đọc đi đọc lại nhiều lần để khám phá thêm những hình tượng nghệ thuật ẩn dấu sau mỗi câu, mỗi chữ. Khi chấp nhận tất cả các hình thái, hữu thể hoặc vô thể, vật chất hoặc tinh thần đều có tiếng nói, trong quan điểm tạo vật hòa đồng của Lão Trang thì vũ trụ sẽ vô cùng linh ảo và tầm nhìn của con người có thể mở rộng mãi ra: Ở đây, các "hiện tượng" thông thường và dị thường họp nhau trong một đại hội quần phi: sấm, chớp, gió, mưa giao thoa với những bí mật phong thủy như sức "đùn" của đất, sức "rút" của đất, vọng ảnh rồng hiện, huyễn tượng "khuấy rối" của người chết trở về, giao hòa cùng những hiện trạng mờ ám trong trí não bệnh hoạn của con người, tạo nên những vũ điệu phù ảo, dị kỳ, đong đưa giữa hư và thực. * Muốn triệt
tiêu sức tàn phá của thời gian, nhà văn đã làm "sống lại"
tất cả mọi yếu tố: dĩ vãng, hiện tại, tiền kiếp, hậu
thân trong một triết lý nhân quả được linh ảo hóa, tạo
nên một dàn giao hưởng dị kỳ: Ðất có quyền lực như
một vị trí phong thủy chiến lược: Sự động thổ, xâm
phạm vào dĩ vãng của đất có thể đưa đến những kết
quả không thể lường được. Những điềm hay, điềm gở
trong đầu óc mê tín của người dân quê -phản khoa học nhất-
lại có thể tiên liệu xã hội trong thâm độ khắc bạc nhất
về sự tha hóa của con người.
"Ai thiến đê ...ê ...ê ...êNhững "kẻ thiến lợn" có khả năng biến thiên, chúng không diện mạo, không cha, không mẹ, chúng thường ẩn dấu sau bức màn mưa, chúng hù dọa, đàn áp, chúng đeo đuổi con người từ lúc sinh đến lúc diệt. Chúng là một thực thể vô hình. Một sức mạnh tự kỷ ám thị. Một sự tự thiến. Tự hủy. * Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều cô đơn, lạc lõng, mất liên lạc với nhau và mất liên lạc với cuộc sống. Xã hội xung quanh cũng không hơn. Ðó là một tập hợp của những khối cô đơn bên cạnh nhau, mỗi người đều mang cây thập tự của riêng mình trên hành trình về cõi chết. Những thế hệ trước cũng không khá gì. Lương Ngọc Quyến và Ðội Cấn là hai mẫu cô đơn anh hùng. Tính chất anh hùng ở đây, được xác định như một khả năng hủy diệt và tự diệt: Khi bị Pháp vây khốn, Ngọc Quyến tức Lập Nham yêu cầu Ðội Cấn bắn vào bụng mình. Và đến phiên Ðội Cấn bị nguy, hạ lệnh cho Ba Nho không được, đành tự sát. Ðội Cấn chết với ảo ảnh cuối cùng vọng về người yêu. Hành trình về cái chết của người anh hùng và người không anh hùng chỉ khác nhau ở một điểm: Người anh hùng có khả năng tiêu thụ sinh mạng của nhiều người và của chính mình. Người không anh hùng, cố bám chặt cái phao hy vọng, vào sự sống, dù khi thể xác và tinh thần đã thối rữa, đã trống rỗng từ lâu. Anh hùng sống vận tốc nhanh, nhiều lần nhúng tay vào tội ác nhưng lại tránh khỏi tình trạng tha hóa tiệm tiến và được tiếng anh hùng. * Ở
những cuộc đời bình thường, sự tha hóa tiệm tiến đến
từ nhiều phía: Ðiên loạn. Tự Thiến. Tự kỷ ám thị. Bản
thân là tập hợp nhiều yếu tố thiện ác, tích tụ từ nhiều
đời, nhiều cõi. Bản thân là nhân quả của những tiền
kiếp. Sự điên loạn cũng có thể đến từ chỗ con người
không nhận thức được tầm quan trọng của những tồn
tại khác xung quanh mình và chính những tồn tại ngoại
lai ấy, như thiên nhiên, cây cỏ, như linh hồn, đã tác động
con người trong hành vi tự hủy. Nhưng lại có lẽ cũng không
hẳn thế. Vì ông Khánh là nhân vật duy nhất biết sống với
cây cỏ, ở một khía cạnh nào đó, ông đã chấp nhận cây
tùng như một người tình, một thành tố của cuộc sống.
Sự giao hoan giữa ông Khánh và cây tùng khiến ông được
sống những phút giây huyễn ảo, nhưng đồng thời cũng lại
đưa ông vào bến bờ mê dại.
* |
Những
yếu tố của tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí Nhớ
Suy Tàn
Trí
Nhớ Suy Tàn, cuốn tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Bình
Phương, do nhà xuất bản Thanh Niên phát hành tại Hà Nội
tháng 2 năm 2000, hoàn toàn khác hai cuốn trước.
Ðể tìm một định nghĩa cho tiểu thuyết mới, Alain Robbe Grillet, một trong những người chủ xướng phong trào này, đã đưa ra lối nhìn phủ định: Theo ông, tiểu thuyết mới không phải là một lý thuyết với những quy luật riêng mà chỉ là một sự tìm kiếm. Mỗi tác phẩm là một sự tìm kiếm. Bởi lẽ đơn giản là những người viết tiểu thuyết hôm nay, không biết rõ một cuốn tiểu thuyết thực sự nó phải như thế nào? Nhưng điều
rõ ràng nhất là người sáng tạo ngày nay, không còn như thời
Balzac nữa. Tiểu thuyết Balzac miêu tả thế giới như thể
người kể chuyện thấu hiểu tất cả mọi việc, mọi lẽ;
tác giả có mặt ở khắp nơi, cùng một lúc. Tác giả giải
thích được tất cả những gì đã xẩy ra trong quá khứ,
hiện tại, tương lai. Một người như thế chỉ có thể là
Thượng Ðế. Tiểu thuyết gia ngày nay từ chối vai trò
Thượng Ðế, hắn chỉ dám đứng ở địa vị con người,
một người chủ quan, với tầm nhìn, với cảm giác và óc
tưởng tượng của chính mình để trình bầy sự việc.
Ðiểm
thứ ba: Tiểu thuyết mới đặt lại vấn đề hiện thực.
Ðiểm thứ tư, về mặt "nội tâm". Nathalie Sarraute phản bác dạng thức phân tích tâm lý kiểu Dostoievski: Những khám phá phân tâm của Freud đưa ra nhiều "tầng" tâm lý và phần nào chứng minh rằng cái tầng mà chúng ta gọi là tâm lý hay "nội tâm" của nhân vật, thật ra chỉ là một cái thùng không đáy. Ðúng hơn, nội tâm là một sự im lặng. Im lặng hoàn toàn. Ðiểm sau cùng cũng là điểm khá quan trọng, phát xuất từ triết học hiện sinh. Ðó là sự tồn tại. Tiểu thuyết mới chú trọng đến sự tồn tại và chỉ có sự tồn tại mới là đáng kể. Thân phận con người, theo Heidegger, là đang ở đấy. Tóm lại, người, vật, hiện diện lù lù ra đấy. Không cần giải thích vì không thể giải thích mà chỉ có thể quan sát. Từ đó phát hiện quan điểm "cái nhìn" (regard). Tiểu thuyết mới còn gọi là Trường Phái Cái Nhìn (Ecole du regard). Khi chấp nhận một quan điểm như thế thì những khái niệm về nhân vật có tên tuổi, có lý lịch, câu truyện có tình tiết, kết cấu v.v... không còn giá trị nữa. Và chỗ mà tiểu thuyết hiện thực cổ điển dựa vào như sự độc đáo của tính người, hay tính anh hùng v.v... trở thành phi lý, bởi thực chất không ai có thể làm kiểu mẫu cho một loại người lý tưởng nào đó trong xã hội mà mỗi người là một trường hợp riêng. Nhân vật được xác định bằng sự hiện diện, bằng tồn tại của nó với những hành vi, những ứng xử trước mọi hoàn cảnh. Không phải cái tên hay tâm lý xác định con người mà chính những hành vi, ứng xử xác định con người. Trong thực
tế, tiến trình "hiện đại hóa" tiểu thuyết bắt nguồn
từ một vài khuôn mặt lớn:
Kafka tạo tiểu thuyết tình huống (roman de situation) mà K, vai chính, phải đối phó với hoàn cảnh trong một sa mù tuyệt vọng. K hay Kafka trực diện tình huống phi lý, tiên đoán tình huống "KGB", "CIA", tình huống bị theo dõi, rình rập của con người trong thế kỷ XX. Với Marcel Proust, người ta khám phá ra rằng thời gian và ký ức mới là tác nhân chính trong tiểu thuyết. Sự khám phá kho tàng quá khứ ẩn dấu trong thời gian là một trong những rường mối cơ sở cho tiểu thuyết hiện đại. Với Proust, cái tôi Thượng Ðế không còn là tác giả mà chính ký ức mới thực sự là tác giả của tiểu thuyết. Tiểu
thuyết mới đi xa hơn đến chỗ đối cực, phản đề,
phản tiểu thuyết (anti-roman), đưa ra cấu trúc phi thời gian
và sự lãng quên của hồi ức.
* Với tựa đề Trí Nhớ Suy Tàn dường như Nguyễn Bình Phương muốn xướng lên hai yếu tố: Trí nhớ và sự suy tàn của trí nhớ, như hai thành tố cấu tạo nên cuốn tiểu thuyết mới nhất của anh. Ðây là một cuốn tiểu thuyết ngắn. Ðúng hơn là một tạp ghi của trí nhớ, viết vội, kẻo sợ chóng tàn. Ðây là một chuỗi hồi ức của một người con gái không biết tên gì, ghi lại những ấn tượng chao đảo giữa hai người tình. Người con gái ấy tự họa bằng bút pháp tự động: "Chẳng mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi.Ðó là những dòng mở đầu tiểu thuyết. Những mệnh đề hầu hết không có chủ từ nối tiếp nhau, như ở trên không võng xuống. Dưới hình thức cổ điển, người ta sẽ viết: "Tôi sinh ra trong một thành phố, cách đây 26 năm ..." Nhưng Bình Phương chọn lối phát biểu mới: Nói trống, biểu lộ tính chất "không tiêu biểu", "không xác định" của nhân vật. Có thể là tiếng nói của "ai đó", một cựu sinh viên, không nhất thiết là của một cô Lan, cô Huệ nào. Nhưng khi "căn cước" của người nói nhòa đi, thì cái điều mà người ấy muốn nói, muốn bầy tỏ; đúng hơn, cái ký ức mờ ảo, suy tàn của người ấy lại lộ rõ ra, muôn phần hơn, với tất cả tính cách độc đáo, nên thơ và huyền ảo của nó. Nguyên chất, ký ức đã mơ hồ, đã gần gũi với thơ, vì bị màn sương thời gian bao phủ, nhưng khi ký ức ấy được ghi lại bằng những câu vô chủ (không có chủ từ) thì sự mông lung lại thêm bội phần. Người ta có thể đọc tập ký ức này như một bài thơ dài, bị "tiếng nói nhanh, âm trong veo" kia kéo đi hết trang này đến trang khác, hết ngõ ngách này đến ngõ ngách khác của Hà Thành. Lạc trong mê lộ của đường phố, rơi vào những khúc mắc của tình yêu, của ảo tưởng. Cái âm trong veo ấy, có lúc vọng lên như từ một con đường, khi lại vọng lên tự đáy tâm hồn, một tâm hồn xưng em ngọt ngào, với người yêu, với người đọc. Cái âm trong veo ấy dẫn chúng ta xuyên Hà Nội băm sáu phố phường với những thực tại văn hóa đã được lập lại trăm, ngàn lần trong sách vở. Nhưng lần này, lạ hẳn: "Những người đàn bà ăn mặc quê mùa chân chất, áo phin hoa, quần đen, gánh hàng rong đi qua cây điệp, bóng họ đổ xuống hè còn hình hài in trong cửa kính lẫn với xe máy, đài, tủ lạnh, phích điện. Tuồng như những người đàn bà đó từ quá khứ trở về, lại tuồng như họ chỉ tình cờ đi ngang qua trong vẻ uể oải mãn tính. Ðiểm dừng chân của người bán hàng rong là một bí mật sâu kín.Trí nhớ và cái nhìn ở đây là tác nhân của tiểu thuyết. Không logic, không biện luận, không mô tả theo nghĩa thông thường. Người viết truyện chỉ là thư ký, ghi lại những gì trí nhớ cô gái xướng lên, trong trạng thái nguyên thủy, mỗi liên tưởng có thể gần gũi mà cũng có thể nhẩy cóc từ vấn đề này sang vấn đề khác. Trong thể loại cổ điển người ta gọi đó là tùy bút. Nhưng ở đây có cái gì rất khác, rất xa tùy bút. Ðó là sự vắng mặt của cái tôi xác định. Ở tùy bút, cái tôi xác định của nhà văn luôn luôn hiện diện như một Thượng đế nhỏ, thay cho Thượng đế toàn năng, nơi tiểu thuyết cổ điển. Ở đây không còn cái tôi xác định nữa, chỉ còn tiếng nói mờ ảo của ký ức, đang nhòe đi, đứt quãng, khi nhớ, khi quên, khi chắc, khi không chắc, lúc đoán, lúc tưởng. Trí nhớ ấy rọi vào đời sống hàng ngày của Hà Nội, chiếu lên những khuôn mặt của hai người tình có tên Vũ, Tuấn, của những giao hữu thân sơ như cô bạn gái có tên "chủ hiệu cầm đồ", ông họ Trịnh với biệt danh "hai mươi bẩy vết thương" hay bà già độc thân hàng xóm, hoặc những người như Hoài, Huyền, Quẩy... Ðó là những chân dung được ký ức ghi lại, khi tỏ, khi mờ, tất cả tạo nên một không gian Hà Nội của trí nhớ, phi thời gian, vừa thơ mộng, vừa hiện thực. Cái hiện thực trong tác phẩm Trí Nhớ Suy Tàn của Nguyễn Bình Phương là một hiện thực hiện sinh trong trí tưởng tượng của nhà văn, nó đã khác xa với hiện thực chụp ảnh thời Balzac, được độc tôn và biến cải thành hiện thực tô hồng thời xã hội chủ nghĩa. Hiện thực hiện sinh trong trí nhớ nhà văn vừa huyền ảo vừa đa nghĩa, có thể đã xuất hiện từ xưa cùng một lúc với thi ca, nhưng trong khoảng thời gian dài -ít nhất là từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX- đã bị hai phong trào hiện thực Balzac, rồi hiện thực xã hội chủ nghĩa lấn át. Sự trở lại của hiện thực hiện sinh trong trí nhớ nhà văn đã nuôi dưỡng những trào lưu tiểu thuyết nổi tiếng của thế kỷ XX như hiện thực huyền ảo Châu Mỹ La Tinh, như phong trào tiểu thuyết mới.... * Tự nhận
là khách của trần gian, Nguyễn Bình Phương đã đưa
ra những suy ngẫm sâu sắc về chiến tranh, về thực chất
của anh hùng, về những tha hóa truyền kiếp của phận người.
|
Chú thích:
(1) Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập I, nxb Khoa Học Xã Hội, 1983, trang 279. (2) La mort est un voyage et le voyage est une mort (L'eau et les rêves, trang 89, Bibliothèque Essais, Livre de poche) (3) Tous les fleuves rejoignent le Fleuve des morts (Sđd) © 1995-2001 Thụy Khuê |
[ Trở Về ]