Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Các anh làm văn kia
mà!
Bệnh giải thích Đi đêm tìm sáng Phải đọc nhiều Bở hơi tai mới nhẹ nhàng! Đi, đọc, và viết Phải biết dùng vốn... Văn phải linh hoạt Mặn chữa dễ hơn nhạt Phải đọc lại cả bằng tai Đừng thiếu, càng đừng thừa Phải chịu thương, chịu khó Công đức lập ngôn |
Văn
xuôi mà có nhạc, viết xong phải đọc lại cả bằng tai,
mà mỗi lần viết phải là một lần sử dụng sáng tạo tiếng
nói dân tộc để "lập ngôn", mà tác giả nổi tiếng là "người
đi tìm cái đẹp", loại văn xuôi ấy nhất định không có
thể dịch ra thứ ngôn ngữ "quốc tế" nào để chờ được
phát giải thưởng.
Ai
cố viết văn xuôi cho giống ở đâu đâu thì mặc ai.Nguyễn
Tuân suốt đời theo đuổi loại văn xuôi riêng của mình. Nguyễn
Tuân nhận thức hoàn toàn đúng đắn về bản chất của việc
mình làm chứ không mắc "bệnh giải thích", nên không bao giờ
lý luận về văn chương. Sau
đây là một số ngẫm nghĩ, lời tâm sự của một người
"đi tìm" tận tụy và đã đến được Đẹp nhiều lần hơn
bất cứ người viết văn xuôi nào khác. Các tiểu đề đều
tạm đặt. Năm
sau Nguyễn có đón giao thừa ở ngoại thành không nhỉ?Nếu
có thì sáng mồng Một, có gặp lại "cái anh sương xuân bảng
lảng" chăng?Nếu có và có,
thì cũng chỉ là để cùng hướng về tương lai tái ngộ ở
ngoại ngoại thành! Mới
mất "anh sương" đã kêu "nghèo", vậy cái chiều ba mươi tháng
Chạp vừa qua, hồn Nguyễn được con cháu rước về ăn Tết
Quý Tỵ, nhìn quanh chắc thấy Tết... rách mồng tơi. Tết
truyền thống sắp sửa "mất đứt" rồi. Mà
những người Việt cảm xúc tinh tế như Nguyễn cũng sắp
sửa "mất đứt" rồi.Cả cái
đất nước từng có một nền văn hóa hết sức thơ này rồi
chỉ rặt những "anh" gặp bất cứ cái gì cũng đòi mổ xẻ,
phanh phơi! Bây
giờ cả dân tộc Việt Nam đang đua nhau theo "người khác"
ngày đêm nặn óc "đi tìm cội nguồn của hiện tượng", chả
ai còn rỗi để cho tâm hồn mình cảm xúc cho ra cảm xúc bất
cứ hiện tượng nào nữa. Văn
chương sắp sửa "mất đứt" rồi, Vang bóng một thời
ơi. -- Người
xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối đất, sáng mồng
Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân (...) (Khi)
ra về (...) khỏi cổng, dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố
Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm, ông nghiêng
đầu nói khẽ với tôi: -
Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng Một này thiếu cái gì
không? Tôi
không cần động não để tìm câu trả lời làm gì. Câu hỏi
được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn,
chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân. -
Thiếu sương! Nguyễn
Tuân mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài. -
Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi không trách. Anh còn
quá trẻ. Ngày trước sáng mồng Một bao giờ cũng có sương
nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có thôi, nhưng đích
thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như có mà như
không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển
hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có
khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay,
vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không
biết là cái gì. Bây giờ mới phát hiện ra: đúng là thiếu
nó, thiếu sương. Tôi
bàng hoàng trước nhận xét của ông. Tôi nhớ đến những
năm xa xưa, khi tôi còn rất nhỏ. Đúng là Hà Nội những ngày
đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong
những bãi cỏ, bụi cây. -
Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy,
nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương thay
đổi, nhiệt độ tăng cao hơn trước... -
Xì, đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì cũng
vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như
chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn
kia mà - không nhìn tôi, ông cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói
cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà nó gây
ra trong tâm hồn con người... Còn cái việc đi tìm cội nguồn
của hiện tượng là việc của người khác. -
Dạ! -
Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng. Tiếc quá! Nguyễn
Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự. -
Thiếu nó, Tết (...) nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một
chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy, sang năm phải tìm
cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp
lại nó.(1) Bệnh
giải thích Ðọc
phát biểu của Nguyễn Tuân, có thấy nhẹ nhõm. Tưởng tượng
"người đi tìm cái đẹp", sau một đời xuôi ngược tìm,
tuyên bố: "Tôi đã giải mã được cái đẹp, bí mật của
nó đây..."! Tưởng tượng Nguyễn Tuân trịnh trọng "bật
mí"
Vang bóng một thời hay
Chùa Ðàn: còn thất
vọng nào hơn! Để
ý, "bố tôi" hiển nhiên rất có tài trong việc sáng tạo ra
một cành đào đẹp, thế mà..., thế nghĩa là không phải
cứ hễ nghệ sĩ sáng tạo giỏi thì chắc chắn nhận thức
hoàn toàn đúng về hoạt động sáng tạo của chính mình!
Ai biết có bao nhiêu nghệ sĩ ưu tú khác cũng như "bố tôi",
"có mắc một chút bệnh giải thích"... "Một
chút" không sao, nhưng trầm trọng là chí nguy cho nghệ thuật
đấy. Bây
giờ thời đại khoa học. Người người say sưa giải thích
tất cả mọi cái, kể cả cái đẹp. Càng được nghiên cứu
công phu, giải thích cặn kẽ, cái đẹp đích thực nó càng
hiếm khi xuất hiện! Nhưng nhân loại khoa học có biết đâu. -- -
Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản toàn đào, giá lại
hạ, nhà nghèo năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố có tìm
ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào
của bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành
đào của ông ấy cũng làm tôi mê mẩn, cũng làm tôi sửng
sốt (...) Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa mà mình
thì thích cuốc bộ (...) Mai có khi tôi còn đến đây nữa.
Để ngắm cành đào của bố anh! Ngày
hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để ngắm có
một cành đào mà thôi (...) Tôi
(tức Vũ Thư Hiên) kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố tôi nhìn
vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười: -
Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một
chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải
thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố
anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một
cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông
giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được
để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì (...) (2) Đi
đêm tìm sáng Tưởng
tượng một người ngồi một mình trong đêm khuya, ôm một
"nồi" cảm giác cảm xúc, loay hoay tìm cách nấu cho nó thành...
Chùa Ðàn. Nguyễn
Tuân đó. Nguyễn đang "đi đêm". Nguyễn sẽ ngồi đi cho đến
bao giờ những cái chất chứa bên trong Nguyễn nó chịu bốc
hơi lên, hơi đông lại rơi xuống thành... sách. -- Ngay
cả lúc anh đăm đăm ngồi trước trang giấy trắng lạnh phau
giữa phòng văn, anh cũng vẫn là một người đang đi. Ði vào
cái đêm làm việc của mình. Ði cho đến tận cùng của đêm
mình. Của một đêm, của trăm của ngàn đêm, của ngàn lẻ
đêm(...)
(3) Phải
đọc nhiều Viết,
nhưng về cái gì chứ. Muốn
có cái để viết thì phải "đi". Ði không chỉ bằng chân
mình, mà cả bằng chân người khác! Nguyễn
Tuân mới nói đến một cái hay của đọc sách là "tích lũy
thực tế". Còn một cái hay thứ hai. Ấy là khi đọc sách,
ngoài tiếp thu kinh nghiệm sống ta còn tiếp xúc với những
cách viết có thể mới lạ đối với ta, gợi ý cho ta làm
mới cách viết của mình... Một
đọc đến hai hay, chờ gì nữa! -- Phải
đọc nhiều. Ði thực tế là cần thiết nhưng chưa phải là
đủ (...) Theo tôi vốn đọc sách cũng là một nguồn thực
tế. Ðó là một cách tích lũy thực tế qua kinh nghiệm của
người khác (...) (4) Bở
hơi tai mới nhẹ nhàng! Thực
là đã "thở hồng hộc", thế mà nếu để lộ cái thở hồng
hộc ra, thì uổng công... thở hồng hộc! Cũng
phải thôi. Vì người đọc đọc không phải để nghe người
viết thở! Cho người ta nghe, người ta thôi đọc đấy. Có
muốn kể công thở tí, phải kể cho nhẹ, như Tản Đà: "...
Thâu đêm hao tổn tinh thần Đèn
xanh chiếc bóng xoay vần từng câu!", thì
mới được. -- Lao
động nghệ thuật là sự đánh nhau với chữ nghĩa nhưng anh
phải tích lũy, lao động như thế nào để khi viết ra người
đọc cảm thấy nhẹ nhàng. Phải tỏ rõ được sự hàm dưỡng
trong bài văn của mình. Ðừng lộ cho người đọc thấy mìnnh
phải thở hồng hộc, bở hơi tai ra. Ðúng là mình phải bở
hơi tai làm việc cật lực, nhưng để đem đến cho người
đọc một bài văn nhẹ nhàng, thanh thoát. Ðọc xong bài văn,
câu chữ hết rồi, nhưng ý vẫn còn dư.(5) Đi,
đọc, và viết "Đi"
là để tự mình gặp được nhiều cái khác nhau mà nẩy sinh
cảm nghĩ dồi dào. "Đọc"
là đi bằng... chân người khác. Đi
và đọc tạo vốn. Có đủ vốn rồi thì "làm ăn": viết.
Làm ăn thế nào cho xứng với vốn thì làm! Thiết
tưởng đọc còn có giá trị này nữa. Là nó có thể gợi
ý cho người viết làm mới nghệ thuật mình. Tức đọc cũng
giống như tích lũy "vốn hình thức". Tưởng tượng cái lúc
bắt đầu cho dễ hiểu: một người tâm hồn trí óc đầy
ắp cảm nghĩ mà chưa đọc bài thơ bài văn nào của ai cả,
người ấy biết đặt bút xuống viết làm sao?! Nguyễn Du
trước khi viết Kiều cũng phải nghe hát ru em, hát ví,
hát đúm v.v. đã chứ! Vay
trời vay đời vay người vốn nội dung vốn hình thức, cố
trả cho tốt nhé, ta ơi. -- Người
làm nghiệp văn thấy hình như đời mình, nghề mình chỉ thâu
tóm lại có ba việc cơ bản: đi, đọc, viết. Ba việc ấy
liên quan chặt chẽ với nhau. Hạnh phúc vậy thay là những
người làm nghiệp văn mà lại đều đều làm được song
song cả ba việc đi, đọc, và viết.(6) Phải
biết dùng vốn... Nói
văn to, người ta hay nghĩ đến văn chở đạo chở triết.
Đấy mới là một lối to. Còn lối nữa. Văn mà có sức gợi
cảm đặc biệt, chẳng hạn: "Buồn
trông ngọn nước mới sa Hoa
trôi man mác biết là về đâu" hay "Bến
Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh
hơi thu lau lách đìu hiu", cũng
là văn to. Loại
văn bề thế thứ hai, nhà văn nhà thơ Việt Nam có lợi thế
khi sáng tạo vì tiếng Việt cực kỳ gợi cảm. Vốn độc
đáo của bao nhiêu đời tổ tiên để lại, ta phải hết sức
tìm cách huy động thế nào cho xứng! -- Cũng
cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng (...) sáng tạo
thì văn sẽ có bề thế (...) Có vốn mà không biết sử dụng
thì cũng chỉ là nhà giầu giữ của(...) (7) Văn
phải linh hoạt "Cứng
đơ" thì như máy móc. "Linh hoạt" thì như tự nhiên. Máy
móc có thể "hoạt" lắm, nhưng "hoạt" mấy đi nữa trông cũng
không "linh". Văn
phải như nước như mây chứ đừng như máy! -- Văn
phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ,
thấp khớp.(8) Mặn
chữa dễ hơn nhạt Văn
mặn đây là văn có nội dung, chỉ cách diễn còn nặng. Chữa
là sửa lời cho bớt nặng. Sửa sao cho hình thức nhẹ nhàng
mà vẫn chở được nội dung, tức là biến văn xoàng văn
thường thành văn hay, đâu phải chuyện dễ! Văn
nhạt đây là văn không có nội dung. Không có cái gì để
diễn thì làm sao nên tác phẩm giá trị được! Cho nên chữa
mới càng khó. Thực ra không phải là chữa mà là trước tiên
tập trung lại vào đề tài xem có nẩy được cảm nghĩ gì
đáng diễn hay không... Món
ăn mặn nhạt là chuyện hoàn toàn khác, vì mặn nhạt là do
thừa thiếu muối chứ không liên hệ gì đến "nội dung" của
món ăn là thịt, cá, tôm... Nếu muốn so món ăn với bài văn,
phải nói món ấy ngọt hay nhạt. Canh thịt mà không có thịt
thì ngọt thịt làm sao được! "Chữa" canh hỏng lối này chỉ
có cách tìm cho ra thịt rồi nấu nồi khác! -- Phải
ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra (...) trước khi
bưng nó ra cho người khác thưởng thức (...) theo chỗ tôi
biết, hình như câu gì, trang gì mà mặn - dù có mặn đắng,
mặn chát cũng vẫn chữa dễ hơn là những câu nhạt và những
trang nhạt (...) khác hẳn với sự cấp cứu chữa chạy trong
việc nhà bếp.(9) Phải
đọc lại cả bằng tai Nhạc
chứa cảm xúc của người làm ra nó và nhạc gợi cảm với
người nghe nhạc có tâm hồn đa cảm. Để nối tâm hồn với
tâm hồn, không gì bằng nhạc. Trước kia ta sống chủ yếu
bằng tâm hồn, nên văn ta tự nhiên chứa nhạc. Bây
giờ đa số mọi người hầu như chỉ còn là cái óc suy luận.
Viết là để trình bày suy luận. Đọc là để tiếp thu suy
luận. Nối loại óc này với nhau, không cần làm nhạc. Chỉ
cần ráp một số ký hiệu mang nghĩa qui ước theo cách nhất
định, là đủ. Văn
có nhạc thì mới nên nhờ tai đọc lại. Chứ
văn "tê thấp và thấp khớp", xin cho tai được miễn! -- Viết
ra rồi, chưa có nghĩa là đã xong hẳn (...) (Phải) đọc lại
bằng mắt, đọc lại bằng tai. Đọc thầm bằng mắt và đọc
to lên bằng miệng để cho tai cũng đọc (tức là nghe) với
(...) Tự
mình kiểm tra về tính trong sáng của văn mình, cặp mắt vẫn
là ở hàng đầu, rất cần, nhưng một mình nó riêng tôi cho
là chưa đủ. Có những tiếng, những chữ mỗi lần vác từ
trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần
phải gõ nó lên mà đo lại cả những vòng ngân vang của nó.
Người đã làm nổi thơ thì rất hiểu sự quan trọng của
tai, cái tai nhạc của nhà thơ giúp việc đắc lực cho sự
trong trẻo của lời thơ. Mà người làm văn xuôi cũng phải
hiểu điều này (...) Bởi không thấy được cái tiềm lực
kín đáo của chất nhạc trong mọi cái hơi của văn xuôi,
cho nên đã bục ra một số hiện tượng tê thấp và thấp
khớp tại chỗ văn xuôi này, tại chỗ văn xuôi kia (...) (Văn
xuôi có chất nhạc), hãy khá đừng lẫn nó với cái kiểu
văn xuôi biền ngẫu con hoang của thể phú! (cái thứ nhạc
biền ngẫu ấy đã từng phá đám mất bao nhiêu là trang văn
xuôi có thể là hay)
(10) Đừng
thiếu, càng đừng thừa Lý
tưởng là không thiếu không thừa. Nhưng chẳng thà thiếu
hơn thừa. Tại sao? Có
phải vì cái thiếu nó vắng mặt, trong khi cái thừa nó giơ
mặt nó ra tích cực làm giảm giá trị tác phẩm? -- (Nguyễn
Tuân cho biết ông chia xẻ hai ý kiến sau đây, nhất là ý
kiến thứ hai:) "Anh
phải viết như thế nào để khi người ta đọc đi đọc lại
thật kỹ vẫn thấy không thể thêm vào được một chữ nào". "Anh
phải viết như thế nào để khi người ta đọc đi đọc lại
thật kỹ vẫn thấy không thể bớt đi được chữ nào".(11) Phải
chịu thương, chịu khó Người
thợ ty-pô già thì có gì đáng sợ. Sợ là sợ cái tờ báo
sau lưng người ấy đấy, cái nơi vẫn gửi tiền cho nhà văn
tiêu đấy. Áp
lực của vật chất, hay bất cứ thứ áp lực gì, có làm
hại văn chương chăng? Khó
nói. Một mặt, dĩ nhiên nó đã khiến ra đời hằng hà sa
số tác phẩm đọc để... quên ngay lập tức. Mặt khác, biết
đâu khi bắt đầu viết ta không có hứng nhưng viết một
lúc thì hứng sẽ đến ào ào (cũng như ngược lại, có lúc
cầm bút lên thì đầy hăng hái nhưng viết chưa được mấy
đã đâm chán)... Có
lẽ áp lực vừa phải là tốt nhất. -- Phải
nói rằng Nguyên Hồng là người kiên trì trong công việc sáng
tác. Có những ngày, có những buổi anh không hứng thú gì
lắm – nói một cách văn hoa thì chúng tôi gọi là "đầu
ngòi bút không thấy động gió" – nhưng Nguyên Hồng vẫn
cặm cụi viết (...) Riêng tôi những lúc (...) tờ giấy trắng
cứ như hất ngang ngòi bút mình đi, cứ lặng tờ mà khước
từ bất cứ ý định câu cú nào định ươm ướm thả xuống
– thì tôi lại phải nghĩ đến Nguyên Hồng, lấy cái chịu
thương, chịu khó ở anh ra mà tự động viên mình. Đêm thanh
vắng còn gì dễ sợ bằng trang giấy nguyên như thế cho tới
gần hết đêm. Mà canh này nối tiếp canh khác đêm cứ trôi
đều trên cái trắng băng ấy (...) . Mà thế nào thì sáng
mai cũng phải sang được bờ bên kia (...) Thấy muốn nguyền
rủa bè lũ hình tượng chữ nghĩa nó hè nhau từ giã mình,
mình bỗng chốc là kẻ cùng đường bên sông chữ quạnh trắng
thê lương. Ấy chính lúc khốn cùng ấy hình ảnh Nguyên Hồng
thình lình hiện ra in hệt một ông chở đò tận tình đưa
mình sang ngang cho kịp (...) Bên kia bờ văn đã thấp thoáng
cái người thợ ty-pô già đang ngóng bài(...) (12) Công
đức lập ngôn Nhà
văn "lập ngôn" chứ không "lập từ". Nghĩa là không đặt
ra một từ nào cả, mà dùng những từ sẵn có viết nên những
lời văn vừa đúng tinh thần ngữ pháp dân tộc lại vừa
sáng tạo. "Công đức" là ở chỗ sáng tạo. Tuy Nguyễn Tuân
phát biểu trong lúc giới thiệu tác phẩm của người khác,
nhưng kể từ ngày văn xuôi Việt Nam ra đời đến nay, chính
ông mới là người góp được nhiều công đức nhất. "Công
đức lập ngôn của nhà văn nó mở mang thêm vốn liếng dân
tộc về tiếng nói"? Thiết
tưởng không phải thế. Cơ bản, nhà văn huy động vốn ngôn
ngữ dân tộc cách sáng tạo để làm ra những tác phẩm có
giá trị biểu dương vốn, chứ không thực sự thêm được
gì đáng kể vào vốn. Lời
văn Nguyễn Tuân hay tuyệt, nhưng có khiến được bao nhiêu
người Việt Nam đổi lời mình nói đi ít nhiều đâu! Nông
nỗi bởi đông đảo nhân dân không quen thuộc với văn ông,
hơn nữa dù có bị ép đọc thật nhiều thì chính cái tính
chất tinh hoa của nó cũng khiến họ không thể nào lĩnh hội
được. Ngay
Kiều cũng chủ yếu là biểu dương tiếng
nói dân tộc... Nếu
xem ngôn ngữ như một cái "cây" mọc lên từ "đất" là thực
tế đời sống, thì thơ văn giá trị là hoa chứ không phải
thân cành lá của cây ấy. Cứ mỗi lần có một nhà văn "lập
ngôn" thành công, trên "cây tiếng" lại thấy có thêm một
"đóa lời", còn thân cành lá nó thì cơ bản vẫn y nguyên. -- Và
theo tôi nghĩ (...) là một cái chuẩn quan trọng – nếu không
là duy nhất – để nhận định giá trị của một nhà văn
(...) Cụ thể (...) công đức lập ngôn của nhà văn nó mở
mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được tới mức
nào (...) (nhà văn) đã góp được phần sáng tạo của mình
vào ngôn ngữ Việt Nam như thế nào (...)
(13) __ (1)
Vũ Thư Hiên, "Sương xuân và hoa đào", trong
Nguyễn Tuân
- người đi tìm cái đẹp, nhiều tác giả, nxb. Văn Học,
Hà Nội, 1997. (2)
Xem chú thích 1. (3)
Các
nhà văn nói về văn, tập I, nxb. Tác Phẩm Mới, VN, 1985,
tr. 62-63. (4)
NT
- NĐTCĐ, không nhớ số trang. (5)
NT
- NĐTCĐ, tr. 257. (6)
NT, "Đi, đọc, và viết", đăng Tác Phẩm Mới tháng 7,8
- 1972, in lại trong CNVNVV, tập I, tr. 159. (7)
CNVNVV,
tập I, tr. 174. (8)
Xem chú thích 7. (9)
NT, "Về tiếng ta", đăng Văn Học số 3, 1966, in lại
trong CNVNVV, tập I, tr. 175. (10)
Xem chú thích 9. (11)
NT trả lời phỏng vấn của Ngọc Trai, in trong
NT - NĐTCĐ,
không nhớ số trang. (12)
"Con người Nguyên Hồng", trong Tuyển tập Nguyễn Tuân,
tập 2, nxb. Văn Hóa, VN, 1982, như in lại trong
CNVNVV, tập
I, tr. 196-197. (13)
"Thay lời giới thiệu", Truyện ngắn và tiểu luận của
Thạch Lam, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 1957, như in lại trong
CNVNVV,
tập I, tr. 176-177. |
|