Một
người "không phải"
Nguyễn Tuân có
lần tùy bút:
"Một khách đi
đường, ăn mặc chững chạc, tiến sát vào mình tôi, nói
một câu xếch mé như người Ðàng Trong:
- Xin chút lửa
châm thuốc.
Giá người này
gặp phải tôi lúc bình thản, thì thế nào y cũng nhận được
một câu gì hay thấy được một cử chỉ gì của tôi nhắc
cho y nhớ phép lịch sự thông thường. Khỏi nào mà tôi không
cho y một trận.
Nhưng lòng tôi
hôm nay rộng rãi (...) Tôi (...) vui vẻ đưa diêm cho người
khách xin lửa khiếm nhã (...) tôi không có thì giờ nghĩ tới
sự không phải của một người qua đường."(1)
Có "chút lửa",
mà người ta có nói "xin" đàng hoàng, mà "chửi" nào "xếch
mé", bất lịch sự, nào "khiếm nhã", "không phải"! Người
Hà Nội thanh lịch quá xá, người Ðàng Trong xin chào thua.
(Nhưng thật may hôm đó nhờ lòng rộng rãi Nguyễn Tuân không
cho "y" một trận. Nếu có cho, Ðàng Ngoài dù chỉ văng lời
lịch sự, Ðàng Trong e sẽ văng ngay... dao bấm!).
Giữa hai cái phong
cách ứng xử của hai Ðàng, hiển nhiên có chỗ chệch choạc
trầm trọng.
Hai
cách đánh... lưỡi
Ðã có lần thử
giải thích cái tài ăn nói nổi tiếng của người Bắc.(2)
Ðại khái, trên
"mảnh đất lắm người nhiều ma"(3), "người khôn của khó"
của tổ tiên ta, nếu không luyện ngón võ lưỡi cho dẻo cho
tinh thì chỉ có nước ăn... cám.
Trong khi ở miền
Nam, đất rộng người thưa, miếng ăn dễ kiếm, người không
khôn mấy cũng có cá tôm xài mệt nghỉ, ai còn thiết học
hành luyện tập dù là thứ võ gì.
Cái lưỡi. Nó
tuy "không xương mà (rất) nhiều đường lắt léo". Nó tuy
mềm mà ai từng bị "móc", "xỉa", "xói", chưa nói đến "chửi",
đều lấy làm sợ. Bên Tàu, Khổng Minh từng dùng nó làm kiếm,
"chém" Tào Tháo suýt bỏ mạng ở Xích Bích và về sau đã
"đâm" Vương Lãng chết tươi ngay giữa trận tiền!(4)
Kiếm, dù kiếm
sắt hay kiếm thịt, dường như có hai phép đánh. Phép hữu
chiêu, trước khi đâm một nhát phải... múa một bài. Phép
vô chiêu, khỏi múa, cứ thấy chỗ hở thì cầm kiếm... chọt
đại như Lệnh Hồ Xung.
Múa có chỗ hay.
Múa làm bên địch hoa mắt, làm bên ta có trớn. Mà không múa
cũng có chỗ hay: đỡ mất sức, mất thì giờ!
Hai
lối ăn vận cho lời
Ðâm với chém,
mới múa lưỡi sơ sơ đã thấy... ghê miệng. Nói chơi chuyện
áo quần.
Quần áo của...
lời?
Chứ sao. Lời thường
chở ý, hễ chở mà để ai trông qua cũng thấy ý thì đó
là thứ lời nghèo vải. Ngược lại, nếu phải trông
kỹ mới thấy được ý thì lời ấy là lời giàu vải.
Vải nhiều hay
ít, có khi phân biệt quan với dân, như ở miền Nam.(5)
Nhưng nơi đất
gốc, dân dù chân lấm tay bùn, khố rách áo ôm, lời thốt
ra bao giờ cũng vận bộ cánh thật tử tế. Để ý, bộ cánh
của dân khác hẳn bộ cánh của quan. Ở miền Bắc, lời quan
trang phục lai Tàu, còn lời dân ăn vận thuần Việt. Quan thâm
nho nên xổ nho chùm, dân thâm... cà nên cứ tiếng Giao Chỉ
chính cống mà tuôn ra cho thật kín ý, chứ không hề có mảy
may chịu lép quan về đường vải vóc!
Người mặc nhiều
hay ít vải, cơ bản là do khí hậu tự nhiên. Còn lời
che đậy hờ hững sơ sài hay bao bọc công phu cẩn thận, cơ
bản là do khí hậu văn hóa...
Như
gói quà, như chuông, như nệm
Nghĩ cũng ngộ.
Nước người ta to rộng nên văn hóa đa dạng, còn nước Việt
Nam mình kích thước chỉ "thường thường bậc trung", vậy
mà văn hóa cũng thật nhiều dạng nhiều màu.
Cùng tiếng Việt,
có nơi nói lời hữu chiêu, có nơi nói lời vô chiêu, có nơi
lời đội khăn mặc áo dài cầm ô, có nơi lời mặc áo mai-dô
(nếu có mặc).
Lời nói cũng giống
gói đồ. Có nơi lời giống hộp quà giấy hoa nơ đỏ (phải
quà không?). Có nơi ý trao miễn gói cho người nhận khỏi
mất công mở!
Lời nói cũng như
chuông, như nệm. Nơi này lời chẳng những đã reng reng "rào
trước" cho người nghe đỡ bị sốc, lại còn lo trải nệm
"đón sau" ngừa trường hợp đối tượng vẫn cứ... té. Nơi
kia lời tưng tửng chạy luôn vô tai bậu không thèm bấm chuông,
cũng không xách theo miếng nệm nào hết!
Ngoài
Trong xa mấy vẫn là anh em
Trở lại chuyện
Nguyễn Tuân bị xin tí... lửa (chứ không phải tí huyết!).
Cụ Nguyễn ơi,
có thể cái người khách Ðàng Trong ấy hôm ấy trông cụ
dễ thương (vì cụ đang "đẹp lòng" cơ mà), lại đang ngậm
một chiếc tẩu rất xinh đi phất phơ ở bờ hồ, y bỗng
thấy thèm thuốc và thấy gần gũi với cụ, bèn sà đến
bên như một người bạn mà xin cụ tí chút cái thứ làm sinh
ra khói. Y coi "ba kỳ đều là anh em"(6) đó và nếu bữa đó
cao hứng hơn chút nữa, chắc y đã thân mật kêu cụ bằng...
"Anh Hai"!
Cụ Nguyễn người
Bắc, vốn quen thứ lời lẽ y phục chỉnh tề, trước khi
đâm thì múa, bỗng dưng bị một câu nói trần trụi thình
lình xỏ vào tai, cụ choáng là phải.
Còn kẻ đứng
bên Hồ Gươm mà tưởng đứng giữa chợ Bến Thành, lời
xin lửa của y dĩ nhiên nghe có hơi lạc điệu, nhưng
"Nước non vẫn
nước non nhà,
Bắc Nam xa mấy
vẫn là anh em!".(7)
Anh Bắc cứ luôn
vui vẻ cho em Nam tí lửa như Nguyễn Tuân cái hôm đẹp lòng
ấy thì quê hương ta phấn khởi quá! |