Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Anh
hùng tận
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Trường Sa hành Trời mưa đêm xa nhà Góa phụ Đãng tử Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Qua sông Vườn hạ Em nhỏ, làm chi chim biển bắc Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai |
Tô
Thùy Yên khởi thi nghiệp trong nửa sau của thập kỷ 1950,
chủ yếu làm thơ tự do, là hình thức thơ đang "nóng" ở
Miền Nam lúc bấy giờ. Đến khoảng giữa thập kỷ 1960, Tô
Thùy Yên chợt bắt đầu làm nhiều thơ luật. Về nghệ thuật,
Tô Thùy Yên rất thành công với thơ luật và không mấy thành
công với thơ tự do.
Thơ Tô Thùy Yên chứa thứ nội dung gì? Võ Phiến bảo nó "có chủ đề triết lý".(1) Triết có mấy "quan". Tô Thùy Yên chuyên trị vũ trụ quan. Cái nhìn vũ trụ của ông ra sao? "Tôi hoàn toàn không tin vào Thượng Đế như một Đấng Toàn Thiện, Toàn Năng."(2) Tức ông không tin Chúa. Mặt khác, tuy Tô Thùy Yên thỉnh thoảng có dùng một đôi từ trong kinh Phật, thậm chí có "đi về" "suốt bãi sông Hằng"(3), nhưng hình như trước sau Phật cũng không xuất hiện lồ lộ trong thơ ông lần nào. Không Phật không Chúa, cũng không xướng lên một triết thuyết mới... Lại Võ Phiến: "Băn khoăn siêu hình là chủ yếu (...) Gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông là một dấu hỏi khổng lồ nêu lên trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ." Thế thì đối với vũ trụ Tô Thùy Yên có thái độ giống Chế Lan Viên sao? Tưởng không hẳn. Chế Lan Viên thiên về nghĩ, trong khi Tô Thùy Yên thiên về cảm, tuy không cảm nhiều như Huy Cận. Ông Tô lại đặc biệt "nhạy" với thời gian, như ông từng tâm sự: "Thời gian (...) là nỗi ám ảnh lớn lao thường trực của tôi."(4) Vậy người gần ông nhất chính là Võ Phiến chứ ai!(5) Vẫn về nội dung, Võ Phiến bảo vì thơ Tô Thùy Yên có nội dung siêu hình nên ông "gần gũi miền Bắc tận trong tâm hồn". Như chúng tôi có lần bàn, "nội dung siêu hình có hai loại. Thơ Tô Thùy Yên thuộc loại ngoài truyền thống, tức tâm hồn ông gần Trung, không phải gần Bắc. Thơ ấy gần với thơ Hàn, thơ Chế, thơ Huy, thơ Võ v.v. hơn là với thơ Phạm Thiên Thư chứ. Nó ít giống Ba Vì, mà giống Trường Sơn đi lạc xuống đồng bằng sông Cửu!"(6) Không Bắc về nội dung, nhưng thơ Tô Thùy Yên có chỗ chia xẻ với văn học miền Bắc. Ấy là việc sử dụng tiếng Việt hết sức điêu luyện. Dĩ nhiên đó không do tình cờ. Nhà thơ đã nhận thức đúng: "Những chữ trong một câu thơ thành công (...) là những chữ (...) không thể thay thế bằng những chữ tương tự nào khác được"(7), và đã ra công thực hiện cho được cái lý tưởng văn chương. ... Tô Thùy Yên là người Nam. Cái chất Nam nó nằm đâu trong thơ ông nhỉ? Ở ngôn ngữ và ở hình tượng, tuy nói chung không rõ ràng lắm. Tô Thùy Yên làm thứ thơ tiếng Nam cảnh Nam, nội dung Trung, với lời điêu luyện như lời Bắc! Thơ ấy có những bài hay vào bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam. Vì thơ Tô Thùy Yên nhiều bài rất dài, cho tiện phổ biến phải chia làm mấy tuyển. Sau đây là tuyển 1, chọn từ những bài làm trước 1975. Anh hùng tận "Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt", chính giữa là rừng "anh hùng tận" "dô, dô tở mở" đến nỗi "muỗi thủy triều" cũng phải tạm rút! "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi...".(8) Dĩ nhiên các "hào sĩ" bạn bè không tên của "ta" đã nâng nắp bi-đông đựng rượu đế mà "túy ngọa sa trường"! Lời bài thơ toát ra được rất mạnh mẽ cái cảm xúc độc đáo trong một buổi chiều đã có thể cuối cùng... ---- Dựng súng trường
cởi nón sắt
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ Đọc tên thi phẩm sau đây, sực nhớ truyện Tam Quốc. Do "bị" Lưu Huyền Đức "tam cố", Khổng Minh phải rời "thảo lư" lên đường giúp Lưu săn hươu. Mấy chục năm đầy sóng gió, quân sư đôi khi có nhớ "gian nhà cỏ"? Vào năm làm bài Hề... (trước 1975) Tô Thùy Yên đi chưa xa, thế mà ông đã tưởng tượng ngày trở lại. Nói tưởng tượng, vì thời cuộc lúc ấy đâu dễ dàng cho bất cứ ai "lẳng lặng đi đi khuất, trong lãng quên xanh hút thời gian". Dù sao, thi sĩ "trở lại gian nhà cỏ" là để vui thú điền viên, để "lòng ta vô sự, ta vui vẻ", có thực chăng? E không đâu. Vô sự lối gì mà, chẳng hạn, đứng "ngắm gốc cây nứt nở vỏ" lại "nghĩ tới bao điều thầm lặng lớn (mà) trí ta không đủ lực đo lường"! Thường xuyên bị "bao điều thầm lặng lớn" ám ảnh, là Tô Thùy Yên đó. Đi hay về, vẫn cứ bị "ám" nặng thôi. Quân sư tính toán chuyện quân, đánh được một trận Xích Bích thích chí. Nhà thơ băn khoăn chuyện cây nứt vỏ, viết nên trăm câu thơ một hơi, chắc cũng thích chí. ---- Hề, ta trở lại
gian nhà cỏ
Hừng đông hùng
vĩ và thanh thản
Ta ngồi trước
ngõ nghe xao động
Ta ngồi cho đến
khi trời trắng
Ở đây, ta có
dăm người bạn
Dòng sông u hiển
trôi vô lượng
Lòng ta vô sự,
ta vui vẻ
Quên quên, nhớ
nhớ tiền sinh kiếp
Buổi trưa như
buổi trưa nào đó
Ta thiếp trong
vòm xanh đại thọ
Chuyện trần
thế bấy lâu thanh thỏa
Còn lại chăng
cây đàn lở tróc
Gặp buổi trời
mưa bay phới phới
Sống trên đời,
chuyện ghê gớm quá
Gặp buổi trời
trong dàn bát ngát
Ta ngắm gốc
cây nứt nở vỏ
Nên ta phó mặc
cho trời đất
Đêm tối êm
ru lời thủ thỉ
Hình như mọi
sự đều như thế
Trăng, bạn hiền
xưa giờ tái ngộ
Hề, ta trở lại
gian nhà cỏ
Xa nghe đợt gió
lên cơn bão
Cuộc cờ kỳ
lạ không bày tướng
Hề, ta trở lại
gian nhà cỏ
Trường Sa hành Có lần bảo Hát Ngao Trên Tuyết của Cao Tần là bài hành xuất sắc thứ tư của thơ Việt Nam. Bảo thế là lỗi trầm trọng: năm 1974 Tô Thùy Yên có bài "hành Trường Sa" tuyệt vời. Lỗi to, vì nỗi: hành Cao Tần cùng loại nội dung với hành Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Thanh Nam, trong khi hành Tô Thùy Yên khác hẳn, khiến đầu óc người đọc tự nhiên xếp nó vào một chỗ khác... Trong khi bốn "hành sĩ" kia không lúc nào rời mặt đất, Tô Thùy Yên hay đi lạc tận... cõi Vô Biên. Ngoài Vô Biên, thân "hữu hạn" tha hồ "tủi nhỏ nhoi", tha hồ "đập hoảng" mà gọi "đất liền", mà cố mở cho kỳ được "khoảng cách đặc"! Trường Sa, có phải bất quá một cái vỏ đặc biệt thích hợp cho ông Tô tuôn những cảm xúc vũ trụ độc đáo của mình vào... Cảm xúc mạnh, thơ dài mà như làm một hơi. Còn thơ nào hơn. ---- Trường Sa! Trường
Sa! Đảo chuếnh choáng
Mùa Đông Bắc,
gió miên man thổi
Đảo hoang, vắng
cả hồn ma quỉ
Bốn trăm hải
lý nhớ không tới
Sóng thiên cổ
khóc, biển tang chế
Mùa gió xoay chiều,
gió khốc liệt
Trong làn nước
vịnh xanh lơ mộng
Mặt trời chiều
rã rưng rưng biển
Ta ngồi bên đống
lửa man rợ
Chú em hãy hát,
hát thật lớn
Ai hét trong lòng
ta mỗi lúc
Ta nói với từng
tinh tú một
Đất liền, ta
gọi, nghe ta không ?
Ngày. Ngày trắng
chói chang như giũa
Ôi! Lũ cây gầy
ven bãi sụp
San hô mọc tủa
thêm cành nhánh
Trời mưa đêm xa nhà Đêm mưa lạnh, "góc ga thưa", có một cái... tượng ngồi chờ tàu. Gần tượng, có "đường sắt phân ly mấy cành", có "gỗ tênh hênh" trong vòng tay cỏ, có "đèn le lói (như) vết thương tươi". Xa tượng, nhưng không xa lắm, có núi "khoác rừng dày ngồi lì". Núi dầm mưa không biết có lạnh không, chứ người không dầm mưa, không bị "giọt cường toan" nào nhỏ trúng, mà tim cứ "quằn quại hàng hàng"... ----
Ga dầm mưa chịu
co ro
Góa phụ Ai khóc ai đêm khuya, trong tiếng "chó tru thăm thẳm ngây thiên địa"? Có là không, "em khóc hoài chi" cái nỗi có hóa không. ----
Con chim nhào chết
khô trên cửa
Em chạy tìm anh
ngoài cõi gió
Em độc thoại
lời kinh ánh xanh
Ngọn đèn hư
ảo chong linh vị
Cỏ cây sống
chết há ta thán
Đãng tử Vào lúc làm bài thơ này, khoảng cuối thập kỷ 1960 đầu thập kỷ 1970, "đãng tử" Tô Thùy Yên đã "tuần du" được mấy đâu, "một đời" đã "biến đổi" được "bao" đâu, thế mà đã tưởng tượng đến ngày "trở lại ngôi Nhà Lớn"! Từ bấy đến nay, "vũ trụ miên man chuyển động", người "đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê", vừa chèo vừa "thuận tay (...) ngắt một cành sậy" "làm cây sáo thổi cạn hồn sầu", thổi thành thơ "bay tản" khắp trong ngoài nước... Thiết tưởng "ngày kia" trong "ngôi Nhà Lớn", nếu (hồn) thi sĩ được ngồi đọc lại tất cả mình, đọc đến những bài như Đãng Tử, chắc "lòng những bằng lòng một kiếp thơ"! ---- Ngày kia trở
lại ngôi Nhà Lớn
Bạn có nghe,
này bạn có nghe
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Đào Tiềm thì về thật, nên viết Qui Khứ Lai Từ. Còn Tô Thùy Yên thì chỉ mới tưởng tượng đến về, nên viết... Ông Đào với ông Tô về hay muốn về, đều do không chịu được chuyện xảy ra nơi đang ở, chứ không phải do "nợ tang bồng" đã "trang trắng" mà "vỗ tay reo" mà về như ông Nguyễn (Công Trứ). Ông Đào trả ấn từ quan về vui thú ruộng vườn. Ông Tô mơ về "bản trạch", nhưng trong giấc mơ ít nhất lúc đầu ông chưa vui: "Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
"Ta bằng lòng phận
que diêm tắt
Vì lòng không vui, nên lắng tiếng sóng ông nghe tiếng "biển cử ai rần bãi rã rời", trông hình "tàu chuối xác xơ" ông thấy "nỗi đời bi thiết xé lưa tưa"... Thơ Đào Tiềm người ta hay nói tuy có cái vẻ bình dị, điềm đạm, nhưng không phải là không gọt giũa mà chính là "gọt giũa đến mức tự nhiên". Tô Thùy Yên trau chuốt thơ mình cũng rất thành công. Có điều, người có bình dị thì tự nhiên mới là bình dị. Tô Thùy Yên không bình dị, nên thơ Tô Thùy Yên sau khi đến mức tự nhiên vẫn không bình dị. Cái đẹp muôn vẻ, thơ sao cho lộ được cái vẻ của mình! ---- Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Rồi thôi, im
mãi, im vô vọng
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Con đường đi
mỏi mà không tận
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Chuồn chuồn
vui đậu trên nhành lúa
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Các mùa chuyển
động trong trời trống
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Tàu chuối xác
xơ reo ngất ngất
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Ta bằng lòng
phận que diêm tắt
Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch
Qua sông Bờ sông thường cao hơn mặt sông rõ ràng. "Đứng trên bờ nhìn xuống", "đến bến, lên bờ" v.v. Nhưng ở trong Nam có những nơi bờ sông thấp gần sát mặt nước. Đứng ở những nơi ấy, thấy mặt sông cao như ngang... mặt mình, thấy như đã gần dinh... Hà Bá, sợ lắm! "Mùa mưa đã tới", ở "châu thổ mang mang trời nước sát" giữa người đã gục với người chưa gục có "độ cao" gì đáng kể đâu. Cho nên trông "đám", người trông rất dễ "... Nao nao mường
tượng bóng mình
U minh "trào lên mắt ngời" trước mặt. Bước tới vài bước, coi như "đời đã bỏ quên"... ---- Đò nghẹn đoàn
quân xa tiếp viện
Vườn hạ Tô Thùy Yên năm ấy mới 36 tuổi, sao lại "Tím hận một đời..." với "Tuổi già gom lại..."? Coi vậy, chớ "mùa hạ trước" qua cũng đã hăm mấy năm rồi. "Mai kia mốt nọ", tính đại thêm hăm mấy năm nữa, để khi "anh về chơi" cho đủ tuổi! Tính năm tính tháng đùa chút thôi, chớ cũng biết người trẻ hồn già là chuyện có xảy ra. Hồn một khi đã "chín" thì thời gian có khi không trôi nữa: "Trời cao mỏi mắt,
chòm mây bạc
"Mai kia mốt nọ anh về chơi", nằm một mình dưới gốc cây nghe "ve kêu như biển lâng lâng dậy", nghe "mương nước rì rào sao sáng thở", nghe "thủy triều lui bậc bậc sầu", có lúc cất bước loanh quanh khiến "chú dế giang hồ (quen) hát say sưa dưới cỏ buồn" sợ, nín hát, làm "cô tịch bưng ồn như máu tuôn"... "Anh", thiệt ngộ hết chỗ nói! "Thơ ấu, dậy đi,
mừng dụi mắt
---- Mai kia mốt nọ
anh về chơi
ăn trái chín
cây mùa hạ trước
Thời gian đứt
quãng dài vô định
Ai ngắt giùm
anh cây cỏ sướt
Trời cao mỏi
mắt, chòm mây bạc
Hàng cây đứng
bóng ôm tròn gốc
Còn đợi cây
mưa lớn bất thần
Ve kêu như biển
lâng lâng dậy
Mênh mang lưu
thủy trường trăng lạnh
Đây rồi, chú
dế giang hồ ấy
Thấp thoáng ánh
đèn rây lưới lá
Đêm lịm chầy
khuya, trăng nhợt sương
Nằm đây phủ
sáng hằng hà sao
Cát bụi đã
đành thân tấm mẳn
Cọc xu thảy
hết ra ngoài mức
Em có tìm không
mùa hạ trước
Cây cỗi càng
sưng vết chặt lồi
Em nhỏ, làm chi chim biển bắc Đọc mấy câu "(em) biệt xứ ra đi, trời bắt tội", "còn anh hệ lụy chằng trăm rễ", "em đẩy làm chi cửa não nề", chợt nhớ một cái truyện ngắn cũng của Tô Thùy Yên. Trong Nơi Chốn Đi Qua, "tôi" và Phụng rất thân nhau, hoàn cảnh khiến xa nhau, cả hai cùng bất như ý trong cuộc sống, một hôm tình cờ gặp lại... Tôi trách "em nhỏ, làm chi chim biển bắc", nhưng thực ra tôi đâu có đi tìm em ở biển nam. Thực ra, chuyện em và tôi không quan trọng gì cả. "... Còn vọng hằng
hà sa số kiếp
Yêu em, chẳng qua tôi yêu trời đất! Nhớ em, chẳng qua là tôi tưởng niệm thời gian! ---- Em nhỏ, làm chi
chim biển Bắc
Ôi những con
đường đến tự đâu
Biệt xứ ra đi,
trời bắt tội
Còn anh hệ lụy
chằng trăm rễ
Em đẩy làm chi
cửa não nề
Dựng dậy hồn
oan dĩ vãng nào
Có nhớ không
em rừng bóng lạnh
Khép mắt cho
hồn bay diệu vợi
Cây rách sâu
thân chắt giọt lòng
Đồi lộng đưa
nhau xuống cuối ngày
Làm sao đi hết
những con đường
Cầu hân hoan
chết như mưa lũ
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai Đọc "những người..." sau đây, nhớ "thập loại chúng sinh". Xưa đại loạn qua, phần ai nấy tế. Nguyễn Văn Thành xông pha trận mạc, tế riêng tướng sĩ. Nguyễn Du "trải qua một cuộc", chắc "trông thấy" không sót "điều" gì, nên tế chung tất cả cô hồn. Bài tế "mười loài" kết thúc với nội dung tôn giáo rõ ràng: "Ai ơi lấy Phật
làm lòng
Hồi Tô Thùy Yên làm thơ, đại loạn chưa qua. Thi sĩ không tế, lại hình như không có niềm tin nhất định, bèn chọn "biểu dương". "Biểu dương cùng tận" xong, "rồi tất cả sẽ nguôi ngoai"... Hoặc sau bể dâu hoặc trong bể dâu, hoặc đậm màu tôn giáo hoặc không, "cảm sầu dội, xuyên suốt tâm linh" nên thơ để đời. Để ý, trong thơ xưa chỉ toàn "cô hồn thất thưởng dọc ngang", trong thơ nay ngoài người kia kẻ nọ "thương thay" còn sừng sững "ta lớn lao và ta cô đơn"! ---- Ra đi như nước
ao lền đặc
Ra đi như một
bình minh lạ
Ra đi như một
âm thanh sáng
Tự do, ta thết
mừng điên đảo
Con đường vô
định chưa ai tới
Ta mò đoán nghĩa
dòng hư tự
Những người
thuở trước giương cung cứng
Những người
thuở trước đi tìm mộng
Những người
thuở trước say vô hạn
Những người
thuở trước tham chung đỉnh
Những người
thuở trước như là mộng
Những người
thuở trước bây giờ lạc
Hỡi ôi, gió
nổi lên cùng khắp
Nhiều khi ta ngước
lên ngơ ngẩn
Hoàng hôn xô
bóng ta trên cát
Bình minh như
một làn da phỏng
Biểu dương -
hãy biểu dương cùng tận
|
________________
(1) Trong bộ Văn học Miền Nam, phần Thơ. (2) TTY trả lời phỏng vấn, đăng trong Lê Quỳnh Mai, Tác giả, với chúng ta, nxb. Khôi Nguyên, Mỹ, 2004. (3) Đi Về và Suốt Bãi Sông Hằng là tên hai bài thơ của TTY. (4) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2. (5) Xem bài Nét Siêu Hình Trong Văn Miền Trung của TT, đăng trên trang gocnhin.net. (6) Xem bài Đất Nào Văn Nấy của TT, đăng trên trang gocnhin.net. (7) TTY trả lời phỏng vấn, xem chú thích 2. (8) Bài Lương Châu Từ của Vương Hàn: "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi / Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi / Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". |
|