Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Nguyễn
Đình Chiểu
Phan Văn Trị Nguyễn Văn Giai (?) Nguyễn Khuyến Tú Xương Phan Bội Châu Phan Chu Trinh Hoàng Trọng Mậu Tản Đà Á Nam Trần Tuấn Khải |
"Một nghìn năm nô lệ
giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây..."(1) Giặc Tàu
không để lại dấu vết gì trong văn chương bác học thời
Bắc thuộc, vì thời ấy ta chưa có văn chương bác học! Giặc
Tây đến trễ, khi văn chương bác học của ta đã vô cùng
già dặn, nên vết tùm lum.
Thơ yêu nước căm thù giặc thời Pháp thuộc nhiều lắm. Xin tuyển ra đây một số bài đặc sắc, sắp theo thứ tự thời gian. Bắt đầu là thơ của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Giai (?), làm trong giai đoạn Pháp đang tiến hành chiến tranh xâm lược, làm ngay sau khi khói súng vừa tan. Kế đến là thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, làm để diễn nỗi uất ức, lo buồn trước cảnh mất nước. Tiếp theo là thơ của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Trọng Mậu, sáng tác khi người Việt Nam đang sôi nổi tìm cách đánh đuổi giặc. Cuối cùng là thơ của Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, viết ra sau khi mọi nỗ lực kháng chiến đã thất bại, người yêu nước chỉ còn cách rất kín đáo bày tỏ lòng thiết tha với nước... Suốt thời Pháp thuộc, trong làng thơ Việt Nam lúc nào cũng có tiếng "quốc", khi to khi nhỏ nhưng nhất định không chịu im: "Nhớ nước đau lòng
con quốc quốc
Dân Thục rồi không bao giờ khôi phục được nước. Nhưng dân tộc Việt Nam đã lại một lần nữa vùng lên đánh bật quân xâm lược, đuổi Tây về... Pháp, như từng đuổi Ngô về Tàu! Ngày nay sống trên đất nước độc lập, ai ơi chớ quên những tiếng quốc ngày xưa. Nguyễn Đình Chiểu - "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" Trước giặc Tây, chưa có giặc nào khó đánh như giặc Tây. Dữ như quân Mông Cổ, cũng chỉ dùng vũ khí đại khái như của quân ta. Đằng này, "đạn nhỏ, đạn to", "tàu thiếc, tàu đồng", lợi hại quá thể! Biết thừa rằng thất thế, vậy mà "nghĩa sĩ" vẫn cứ "xông vào, liều mình như chẳng có"! Văn hóa ta có truyền thống lính là dân.(2) Đã bao lần người nông dân bỏ cày cuốc cầm gươm giáo đánh giặc và đánh được giặc. Nhưng lần này... "Thác mà trả nước non rồi nợ". Chết vì nước, đối với người Việt Nam còn chết nào bằng. Bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu nhiều câu cảm động, có thể xem như "cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm" cháy mãi trên bàn thờ liệt sĩ. ---- Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ. Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. Khá thương thay: Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ. Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ. Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số. Nhưng nghĩ rằng: Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió. Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Ôi thôi thôi! Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ. Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. Ôi! Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. Hỡi ôi thương thay! Có linh xin hưởng. Phan Văn Trị - "Cảm tác" "Giảng hòa" làm sao được, khi kẻ mạnh người yếu chênh lệch quá rõ ràng như Tây với ta hồi thế kỷ 19. Chỉ có mạnh lấn và lấn, yếu lùi và lùi, cho tới khi yếu không còn một chút chủ quyền nào trên đất của mình. Nghĩ quả thật "ngậm ngùi hết nói" cho những "quan ta" như Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. ---- Tò te kèn thổi tiếng
năm ba,
Nguyễn Văn Giai (?) - "Hà thành chính khí ca" Bài thơ này làm sau khi Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Nội dung ca ngợi Hoàng Diệu và chê một số văn quan võ tướng. Trích sau đây là phần "chính khí ca" mà thôi. Thơ kể chiến sự về chi tiết không sát sự thật. Quân ta chỉ có một số ít súng hỏa mai thô sơ, nạp đạn rất chậm, bắn từng viên và không chính xác. Còn các khẩu "thần công" thì bắn ra cục đá cục sắt chứ không phải đạn pháo nổ! "Bạch quỷ" thừa biết tình hình, làm gì có chuyện chúng "hồn lìa phách xiêu"! Rồi chuyện kho thuốc súng trong thành bốc cháy khiến quan quân hoảng sợ, đó không phải do nội công mà do kho bị quân Pháp pháo kích vào trúng... Nhưng thơ diễn thành công cái tinh thần bất khuất của Hoàng Diệu. ----
Nguyễn Khuyến - "Hoài cổ" Dĩ nhiên thực là "Nghĩ chuyện đời nay cũng nực khóc". Nguyễn Khuyến ức giặc Pháp bắt người Việt "khoét rỗng ruột gan" đất Việt cho chúng tha hồ chở về làm giàu nước chúng đó. ---- Nghĩ chuyện đời
xưa cũng nực cười,
Tú Xương - "Đêm dài" "Sáng lòa" là cái sáng trăng đối với con mắt kẻ vừa sực tỉnh, chứ thực ra vẫn còn đêm. Mà đêm đây hẳn là đêm dài "đô hộ giặc Tây". Giữa những đêm hú hí với cô đầu là những đêm "ta" nằm nhà nhớ chuyện nước non... Tục truyền khi ra Bắc kết nạp đồng chí, Phan Bội Châu có ghé Nam Định, có "đốt đuốc lên soi", gõ đúng vào cửa căn nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông Tú Vị Xuyên. ---- Chợt giấc trông ra
ngó sáng lòa
Phan Bội Châu - "Bài
ca chúc Tết thanh niên"
Đọc bài ca chúc Tết của Ông già Bến Ngự dưới đây, thanh niên nào còn dám ngủ, dám ăn, dám chơi, dám mặc nữa! Chắc chắn những lời "chúc" khi to khi nhỏ khi hở khi kín của Phan Bội Châu trong thời gian bị Pháp giam lỏng ở Huế có tác động đến một số thanh niên, có giúp giữ cháy trong lòng người Việt ngọn lửa ái quốc. Ông chẳng sống đến ngày "vết nhơ nô lệ" được máu nóng xối rửa sạch. Thương ơi! ---- Dậy! Dậy! Dậy!
Trời đất may còn
thân sống sót,
Mở mắt thấy rõ
ràng tân vận hội,
Ai hữu chí từ nay
xin gắng gỏi,
Xối máu nóng rửa
vết nhơ nô lệ,
Phan Chu Trinh - "Giai nhân kỳ ngộ chi ca" Nguyễn Hiến Lê từng kêu gọi người Việt thôi cuồng tín như người Tây phương mà quay trở lại với tinh thần "bất đồng nhi hòa" của tổ tiên. Cái lối không đồng ý mà vẫn vui vẻ với nhau ấy cách nay non một trăm năm có hai nhân vật lịch sử đã nêu gương sáng. Ai nấy đều biết tuy cùng yêu nước hết mình nhưng hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã chọn hai con đường cứu nước trái ngược nhau. Người này chủ trương tạm thời bảo hoàng mà tập trung dùng võ lực đánh đuổi Pháp; người kia chủ trương bãi bỏ ngay chế độ quân chủ, cải cách xã hội, rồi mới tìm cách giành lại độc lập. YÙ khác nhau như mặt trời mặt trăng mà hai cụ cứ có dịp gặp nhau là vui hơn hội. Trong hồi ký Tự phán, Phan Bội Châu kể: "Cụ Tây Hồ tới Hương Cảng (...) thấy chúng tôi, chưa chào đã cười, tôi dậy bắt tay cụ, vui không thể nói được (...) Tôi với cụ ríu rít với nhau ở Quảng Đông hơn 10 ngày (...) hàng ngày (...) bàn (...) việc nước (...) tôi (...) qua (...) Nhật Bản (...) cụ Tây Hồ cũng đi (...) tôi với cụ (...) ý kiến rất trái nhau (...) phản đối nhau (...) mà (...) vẫn ưa nhau. Cụ với tôi kề gối chung giường". Hai cụ Phan ý rất trái nhau mà chẳng những "hòa", lại ríu rít với nhau, ưa nhau, thiết tưởng ấy chủ yếu là do: "Cụ với tôi vẫn đồng một mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhau." Phan Bội Châu muốn lợi dụng quân chủ, còn Phan Chu Trinh muốn lợi dụng phe xã hội của Pháp, nhưng cả hai đều nhằm khôi phục độc lập cho tổ quốc Việt Nam. Liều chết cứu cho được nước, là do có niềm tin vào sự xứng đáng tồn tại của nước. Trong bài hát nói tam thủ dưới đây Phan Tây Hồ khẳng định: "Hai ngàn vạn đồng
bào sanh tụ,
Để câu chuyện văn minh ấy được tiếp tục, khi cần cụ không hề ngại rút gươm: "Đấng trượng phu một
trường oanh liệt,
Cùng một kẻ thù, nên mới kề gối chung giường mà cãi nhau đến sáng! Bài hát nói này ra vẻ do một người xa quê nhớ nước ngồi ngẫm nghĩ rồi cất lời nói với chính mình, hơn là bài văn viết để vận động. ---- I Ta ngẫm nghĩ đôi
câu chương chướng,
II Ta nhớ đâu, nhớ
đầu biển Á,
II Chánh, tự chủ dân
ta dốc quyết,
Hoàng Trọng Mậu - "Ái quốc" Việt Nam Quang Phục Hội thành lập năm 1912. Hoàng Trọng Mậu là Quân vụ Ủy viên. Hội chủ trương dùng vũ lực đánh đuổi giặc Pháp. Than ôi, vũ lực nào! Phải mấy thập kỷ nữa, điều kiện thuận lợi mới đến để dân tộc Việt Nam có thể "kịch liệt bạo động"(4) với quân thù mà có hy vọng thắng. Các liệt sĩ VNQPH hy sinh đau xót quá. ---- "Hồn ơi! Về với giang san." Nay ta hát một thiên
ái quốc
Trải mấy lớp tiền
vương dựng mở
Hào Đại hải âm
thầm trước mặt
Vẻ gấm vóc nước
non thêm đẹp
Hai mươi triệu dân
cùng của hết
Non nước ấy biết
bao máu mủ
Nhục vì nước, mà
đau người trước
"Hợp muôn sức ra
tay Quang Phục
Tản Đà - "Thề non nước" Bài thơ nổi tiếng này làm năm 1920. Hai năm sau, nó được đặt vào trong ruột một cái truyện cũng lấy tên là Thề Non Nước.(5) Truyện vừa giảng một nội dung của thơ, vừa rất kín đáo cho ta biết thơ còn một nội dung nữa. Thề Non Nước có đến hai ruột: "ruột vỏ" là nội dung phong tình quen thuộc, "ruột ruột" là lòng yêu nước của Tản Đà. Đọc đi đọc lại những vần "nước nước non non" ấy, rồi nhớ những bài như Vịnh Bức Địa Đồ Rách v.v., ta không còn ngờ gì nữa, đích thế rồi. Độ tám thập kỷ sau truyện Thề Non Nước, đạo diễn Tự Huy có đem truyện ra làm phim. Trong phim Núi Tương Tư, cái nội dung "bí mật" của bài thơ xưa rốt cuộc đã được "bật mí". ---- Nước non nặng một
lời thề,
Á Nam Trần Tuấn Khải - "Hai chữ nước nhà" Khúc ngâm không biết xưa Á Nam Trần Tuấn Khải viết mấy hơi, mà giờ mình ngon trớn đọc một hơi từ đầu chí cuối. Đọc xong, thấy thật to hai chữ NƯỚC NHÀ! Chuyện Nguyễn Phi Khanh dặn con cũng lâu rồi, hẳn TTK chỉ mượn để nhắc thanh niên Việt Nam chớ quên nghĩa vụ đánh Pháp. Những thanh niên nào lỡ quên, đọc đến mấy câu: "Sống như thế, sống
đê, sống mạt
chắc sẽ giật nẩy mình mà vội vàng tìm cách theo chân "anh khóa xuống tàu"!(6) ---- Chốn Ải Bắc mây
sầu ảm đạm
Hạt máu nóng thấm
quanh hồn nước
Giống Hồng Lạc hoàng
thiên đã định
Than vận nước gặp
khi biến đổi
Nơi đô thị thành
tung quách vỡ
Thảm vong quốc kể
sao cho xiết
Khói Nùng Lĩnh như
xây khối uất
Cha xót phận tuổi
già sức yếu
Con nên nhớ tổ tông
khi trước
Kìa Trưng nữ ra tay
buồm lái
Kìa Hưng Đạo gặp
khi quốc biến
Giở lịch sử gươm
kia còn tỏ
Con nay cũng một người
trong nước
Thời thế có anh hùng
là thế
Con đương độ đầu
xanh tuổi trẻ
Kiếp luồn cúi, đỉnh
chung cũng nhục
Chớ lần lữa theo
loài nô lệ
Sống như thế, sống
đê, sống mạt
Huống con cũng học
hành khôn biết
Nỗi tâm sự đinh
ninh dường ấy
Cha nay đã muôn nghìn
bi thảm
Lời cha dặn khắc
xương để dạ
Gan tráng sĩ vững
sau như trước
Nữa mai mốt giết
xong thù nghịch
Nghĩa vụ đó, con
hay chăng tá?
Con ơi! hai chữ NƯỚC NHÀ... |
__________
(1) Lời ca khúc Gia Tài Của Mẹ của Trịnh Công Sơn. (2) Xem Dụng Võ Là Bất Thường của Đào Duy Anh, trang gocnhin.net. (3) Sông Rồng: sông chảy qua Mỹ Tho. Trên sông có cù lao Rồng. Thành Phụng: thành Gia Định. (4) Lời Phan Bội Châu trong hồi ký Tự phán. (5) Xem Tuyển tập Tản Đà, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2002, tr. 139. (6)Xem bài Tiễn Chân Anh Khóa Xuống Tàu của ANTTK. (7) Sách sử chép, những
nơi giáp giới nước ta với nước Tàu thì ngọn cỏ chia lả
ra hai bên. Nghĩa là nửa đường bên kia thì ngọn cỏ lả
về Tàu, mà bên này thì ngọn cỏ lả về bên ta, cho nên gọi
là phân mao; phân mao tức là chia ngọn cỏ vậy. (ANTTK)
|
|