Chim
Việt Cành Nam
[
Trở Về ]
[ Trang chủ ]
[ Tác giả
]
|
|
Tổng
quan con người, tác phẩm
- Từ "Chém cha" đến "Đ... mẹ"Tuyển thơ văn - Hàn nho phong vị phú |
TỔNG QUAN CON NGƯỜI, TÁC PHẨM |
Từ "Chém cha"
đến "Đ... mẹ"
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ lúc đầu "khó" đến nỗi ông phải ra tay "chém cha cái khó". Ông chém bằng chữ nghĩa, thành một bài phú độc đáo. Phú dài nên chỉ một, còn thơ ngắn nên trong thời bạch diện thư sinh Nguyễn Công Trứ "hàn nho phong vị thi" đều đều... "Bạn" lâu năm với khó, tất nhiên thấm lẽ đời. Đã vậy, sau khi thi đậu ra làm việc nước, Nguyễn Công Trứ lại "lên quan xuống lính" liên miên, có lần xuống tận... lính thú. Những lúc ông thất thế, lẽ đời thừa dịp thấm sâu thêm, khiến ông rốt cục trở thành một người hiểu đời kỹ ít ai bằng. Dạ chất chứa, ông không nén mà cho thoát ra thành cả một chùm "nhân tình thế thái thi". Khác với lời than nghèo khi xưa dù sao còn "thanh", Nguyễn Công Trứ trong hoạn hải ba đào có lúc không ngại văng hẳn "tục": "Đ... mẹ nhân tình
đã biết rồi
(Thế kỷ 19 mà đã như thế kỷ 21 nhỉ. Không biết phải ngược về bao xa thì mới gặp được thứ nhân tình ít "lạt, bạc" hơn?) Một thân, ba bốn nợ "Đã biết rồi" như ông, chắc đa số trở nên bi quan, yếm thế. Nhưng Nguyễn Công Trứ thì không. Đời thế nào ông chém văng cho xứng, xong tiếp tục vui vẻ sống với đời. Được thế, ấy bởi ông quan niệm là mình mắc "nợ". Không phải một nợ, mà ít nhất hai, có lẽ ba, thậm chí bốn! Trước tiên, ai cũng biết, là cái nợ công danh hay nợ tang bồng hay nợ nam nhi hay nợ bút nghiên hay nợ cầm thư. Đại khái, đã trót sinh ra làm đàn ông con trai thông minh tài giỏi hơn người thì "phải có danh gì với núi sông", tức làm nên sự nghiệp đáng kể. Thứ hai, là "nợ phong lưu". Nợ này không phải ai muốn mắc thì mắc, mà chỉ những bậc "tài tình" (như ông) mới "vướng". Nợ phong lưu ngược hẳn với nợ công danh, vì một đằng là nợ làm, một đằng là nợ... chơi. Nợ phong lưu cũng chính là nợ nhàn và gồm cơ bản bốn món: "Cầm kỳ thi tửu, đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay". Thứ ba, là nợ văn chương. Tuy "thi" nằm trong nợ phong lưu, nhưng thiết tưởng trường hợp Nguyễn Công Trứ nó có vị trí đặc biệt, đáng được ra đứng riêng. Vì cầm, kỳ, tửu không nghe nói ông xuất chúng, trong khi ông làm thơ thì khỏi nói. Sau cùng, là nợ... giăng hoa, nợ "chữ tình". A, đây cũng là thứ nợ hay chọn mặt. Nó ưa "trói buộc kẻ hào hoa", người "tài tử", "trai anh hùng", chứ không phải bạ ai nó cũng sinh sự. Gặp Nguyễn Công Trứ, nó ra tay lia lịa khiến ông phải thích chí tự ca rằng "anh hùng hà xứ bất giang sơn"! Nợ tùm lum, đầy đầu đầy cổ, "như chúa Chổm", nhưng Nguyễn Công Trứ lại không chịu trả lối lần lượt, hết nợ này xong đến nợ khác. Để cho chắc ăn (!), ông trả tất cả cùng một lúc! Tưởng tượng một người vừa xôi kinh nấu sử, vừa thơ phú văn chương, vừa đi hát cô đầu, vừa rượu tì tì, vừa cờ liên miên, vừa làm gì đó "ngoài đồng" khiến "thuyền quyên ứ hự"! Người đó rốt cuộc rồi cũng thi đậu, ra làm quan, để vừa cai trị dân hay đánh giặc hay khẩn hoang, vừa tiếp tục cầm kỳ thi tửu... sắc, đến năm 73 tuổi còn cưới hầu non! Trả nợ, mở đường Nguyễn Công Trứ sống lâu, đến 80 tuổi, và sống khỏe lâu, đến ít nhất 73, nên nợ nào ông cũng trang trải sòng phẳng. Về nợ văn chương, ông trả bằng 1 bài phú, 52 bài thơ Đường luật, 63 bài hát nói, 21 đôi câu đối và 2 bản tuồng. Thơ Đường luật và thơ hát nói nhiều xấp xỉ. Thế là Nguyễn Công Trứ hát nói nhiều lắm, nhiều hơn hẳn cả người trước lẫn người sau ông. Thực ra, nhắc người trước cho phải phép chứ hát nói như một thể thơ đa dụng thì Nguyễn Công Trứ chính là ông tổ, có ai trước ông đâu mà so với sánh? Ông mở ra cả một con đường văn chương rực rỡ dài hơn một thế kỷ, đến khi nó tuyệt lộ người ta trông lại thấy ông vẫn "to" nhất. Và "cao" vào bậc nhất. Nguyễn Công Trứ làm thơ Đường luật cũng hay lắm. Lúc nào ông "luật" lúc nào ông "hát"? Nói chung, than nghèo vịnh đời thì luật, còn nhắc nợ nọ nợ kia thì hát. "Trầm" luật, "bổng" hát. Cùng một con người, khi trầm khi bổng, trầm nên thơ hay, bổng càng nên thơ hay... Sau đây ta hãy thưởng thức lại một số tác phẩm. |
TUYỂN THƠ VĂN |
Hàn nho phong
vị phú
Nho nghèo không hiếm chút nào. Nho nghèo có tài văn chương thơ phú cũng không thực hiếm: ngoài Nguyễn Công Trứ, còn có Tú Xương, Tản Đà v.v. Trong số "hàn nho" giỏi văn thơ, chắc chắn NCT hay kể lể, than thở nhất: nào "Phận anh nghèo", "Vịnh cảnh nghèo", "Than cảnh nghèo", "Tết nhà nghèo", "Vui cảnh nghèo" v.v. Sợ thơ vắn tắt, không nói hết được "phong vị" của "cái khó", ông còn làm hẳn một bài phú để tả cho... kỹ. Bài "phú nghèo", mà chữ nghĩa mới giàu sao! Khác Tú Xương và Tản Đà nghèo đến chết, NCT rồi có lúc "ngất ngưởng". Từng khó ơi là khó như ông, cái lúc "dễ" nó thấm thía nói sao cho xiết. ---------- Chém cha cái khó,
chém cha cái khó,
Nợ phong lưu "Chơi là lãi". Nhưng chơi thì tốn. Tốn mà không sẵn, thì phải vay. Tức vay để lấy lãi! Vay trả "nợ phong lưu" không nhất thiết là vay tiền bạc của ai. Nguyễn Công Trứ hẳn chủ yếu vay vào cái vốn thời gian của chính ông. Nghĩa là ông vừa làm vừa chơi chứ không "ky ky cóp cóp" làm. Cớ sao NCT bị lãi "ám"? Chắc do ông sớm thấm cái nghịch ngợm oái ăm của "tay chú thợ trời". Biết chú ấy hay dở trò, hễ có được tí "mặt" là ông chơi, sợ nhỡ "ra hề" không kịp chơi... "Suy mới biết ở đời ai cũng hớ", mà đâu phải ai cũng! ---------- Suy mới biết
ở đời ai cũng hớ,
Giả giả vay
vay lâu cũng hết,
Nào nhục nào
vinh nào hiển hối,
Thế sự phù
vân hà túc vấn,
Cầm kỳ thi tửu 2 "Thơ hát nói", cái tên mới ngộ. Vừa thơ, vừa hát, vừa nói! Tên ngộ mà hay. Hay vì quả nhiên khi đọc bài thơ hát nói ta có cảm tưởng mình đang nói, "nói lối"!(1) Nói lối thì "rắn rỏi mạnh mẽ", như: "Thú xuất trần
tiên vẫn là ta
Rắn, mạnh, là một Nguyễn Công Trứ. Lịch lãm, đài các là một Nguyễn Công Trứ nữa. "Tài tình dễ mấy xưa nay!"! ---------- Cầm kỳ thi tửu,
Thơ một túi
phẩm đề câu nguyệt lộ,
Thơ rằng: Cầm
tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Sách có chữ
"Nhân sinh thích chí",
Tài tình dễ mấy xưa nay!(T3) Chơi xuân kẻo hết xuân đi Ai biết tuổi ca dao. Nhưng chắc cái câu: "Chơi xuân kẻo
hết xuân đi
đã ra đời trước khi Nguyễn Công Trứ hát nói như sau đây. Chắc cụ Nguyễn "chịu" nó quá nên dùng luôn một nửa làm tên bài thơ của mình... "Lãi" mỗi người lấy một cách. Những cách "lắm công phu" của Uy Viễn tướng công, có phải cứ ai muốn bắt chước là bắt chước được đâu. --------- Gẫm cho kỹ đến
bất nhân là tạo vật,
Lại mang lấy
lợi danh vinh nhục,
Tế suy vật lý
tu hành lạc,
Cuộc hành lạc
bao nhiêu là lãi đấy,
Duyên gặp gỡ Ông nói vậy, chứ cứ lấy ngay ông mà xét thì "tướng giỏi" gặp "vua sáng" có phải chuyện dễ đâu. Mà gặp chăng nữa, vua cũng hay nghi nghi ngờ ngờ khiến tướng phải lên voi xuống chó vô cùng mệt mỏi. Còn tài tử với giai nhân, chuyện "tế ngộ" cũng khó lắm vì giai nhân thường có lối đòi đến "thiên kim" khiến tài tử thiếu "tài" đành ôm hận. Gặp "liễu hoa", sợ đợi "duyên chỉ thắm (...) dần dần đưa lại" thì lâu, "chúa xuân" nhân dịp "giữa đồng" bèn tự ý "xe" cho thật "gần": "Giang sơn một gánh
giữa đồng
"Anh hùng hà xứ bất giang sơn", xứ nào đây, nào đây... Nhớ rồi, nhớ chứ, một trong bao nhiêu cái "duyên gặp gỡ" của tôi ơi! ---------- Minh quân lương
tướng tao phùng dị,
Tỳ bà hữu hạnh
phùng Tư mã,
Dầu nghìn dặm
băng sơn quế hải,
Anh hùng hà xứ bất giang sơn!(T5) Vịnh chữ tình Nhà nho tối ngày tụng "nam nữ thụ thụ bất thân" mà cũng "chi chi với tình" sao? Ấy, nho Tàu chính cống còn tình túi bụi dưới "Mái tây", nữa là nho ta! Văn hóa truyền thống của ta vốn thoải mái về quan hệ nam nữ hơn Nho giáo nhiều.(2) Nhà nho Việt sống ở làng Việt, lúc nào xôi kinh để đi thi thì xôi, còn hễ hết xôi, buông kinh bước ra ngoài thì tha hồ mắc vào lưới tình của cô hàng xóm, cô cấy lúa, cô tát nước, cô hàng nước, cô bán chiếu, cô dệt vải v.v. Dĩ nhiên nhà nho chưa làm quan thì có dễ quan hệ lăng nhãng hơn nhà nho đã làm quan. Hơn bốn mươi tuổi Nguyễn Công Trứ mới xuất chính, hẳn nhờ thế mà cuộc đời tình ái của ông vô số kỷ niệm... ----------
Cái tình là cái
chi chi
Đa tình là dở
Đã gọi người
nằm thiên cổ dậy
Tình huống ấy
dẫu bút thần khôn vẽ
Thú thanh nhàn "... thùng thùng đôi tiếng trống"... Ơ, cái trống chầu bé tí teo chứ có phải trống cái trống trận đâu mà kêu to thế?!(3) Ờ, có lẽ tiếng trống bé nó hóa to nhờ "cơn đắc ý" đang nổi như bão trong lòng người. "Nhân sinh quý thích chí"(4). Nay cứ hãy "thùng thùng" lấy lãi (5), còn "một mai" có "bẻ quế thiềm cung", "đánh (được) miếng đỉnh chung" nào chãng, hậu tính! ----------
Nhàn trung thụy
giác tam can nhật
Bạch tuyết thanh
cao, oanh yến lộng
Cõi nhân sinh
thích chí
Chữ tài ấy
ăn chơi, ở đủ!
Trãm nãm đài các lạ đời!(T7) Tự thuật 1 Nguyễn Công Trứ có lúc "thế này" nhưng rồi có lúc "thế khác", nhất về cuối đời ở hẳn trong cái thế khác. Ông may hơn chán vạn quân tử, anh hùng. --------- Chưa chán ru mà
quấy mãi đây
Đời người thấm thoắt Trong chưa đến ba vạn sáu nghìn ngày, Nguyễn Công Trứ đã sắm lắm vai: khi nhà nho "chém cha cái khó", khi nhà quan "nên tay ngất ngưởng", chưa kể nhà thơ, nhà rượu, nhà cờ, nhà cô đầu, nhà "tuổi già lấy vợ hầu (trẻ ơi là trẻ)"!... Con tạo mà cho thêm "đất", biết ông còn "chơi" đến những trò gì. ---------- Nhân sinh ba vạn
sáu nghìn thôi,
Chí khí anh hùng "Đường mây rộng thênh thênh cử bộ", nhớ lúc đường đất chật bổ sấp bổ ngửa. "Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ", nhớ lúc làm chưa nên, đâu đấy chưa ai chịu tỏ. "Nợ tang bồng trang trắng...", nhớ lúc còn nợ như chúa chổm! Đọc thơ "vỗ tay reo" của Nguyễn Công Trứ, chạnh nhớ thơ "ngán đời" của Cao Bá Quát. Đời sao, thơ vậy. Thế mới đủ "mùi" cho khách đọc thơ... --------- Vòng trời đất
dọc ngang ngang dọc,
Nhân sinh thế
thượng thùy vô nghệ,
Cũng có lúc mây
tuôn sóng vỗ,
Đường mây rộng
thênh thênh cử bộ,
Vịnh đồng tiền Vào thời Nguyễn Công Trứ mà đồng tiền cũng to nhỉ. Tất nhiên to sao bằng bây giờ, khi con người ta hình như không còn biết đến bất cứ thứ giá trị nào khác. Đọc thơ tiền, thú nhất câu "Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ ngác"! ---------- Hôi tanh chẳng
thú vị gì,
Tạo vật bất
thị vô để sự
Chốn kim môn,
nơi tử thất,
Kẻ tài bộ đã
vào phường vận đạt,
Dốc đáy túi,
mặt Nguyễn lang ngơ ngác,
Khả quái tầm
thường a đổ vật,
Tiếng xỏng xảnh
đầy trong trời đất,
Thích chí ngao du "Người có biết
ta hay thì chớ,
Hai câu thơ nói
lên được nhiều quá.
Ngang tàng xót xa, "là ta" đó, ai ơi. ----------- Ngâm cùng trăng
gió vài câu kiểng,
Đủ lếu láo
với người thiên hạ.
Thơ rằng: Đạo
thông thiên địa hữu hình ngoại,
Người có biết
ta hay thì chớ,
Ngang tàng lạc ngã tính thiên.(T12) Chữ nhàn Bài thơ này khiến ta nhớ vài văn thi nhân Việt Nam trước và sau Nguyễn Công Trứ. Câu "Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe" nhắc "Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra" của tiền nhân Nguyễn Gia Thiều. Cái khổ áp chót nhắc "Trăm nãm thơ túi rượu vò, nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai" của hậu sinh Nguyễn Khắc Hiếu. Rồi cái câu chót của khổ ấy lại được kẻ sinh sau nữa là Nguyễn Tuân chọn đặt ở đầu thiên truyện đắc ý của mình là Chùa Đàn. "Ai hay hát mà ai hay nghe hát"... "Ngàn muôn năm" sau, Nguyễn kia Nguyễn nọ, ai, ai?! ---------- Thị tại môn
tiền náo,
Nên phải giữ
lấy nhàn làm chước
Thoắt sinh ra
thì đà khóc choé,
Tri túc tiện
túc, đãi túc hà thì túc,
Ngã kim nhật
tại tọa chi địa,
Sông Xích Bích
buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Thoát vòng danh lợi Khi "hát nói" bài này, Nguyễn Công Trứ "trót bước chân vào đám phồn hoa" hẳn không phải mới một lần. Vào, ra, vào, ra... Lên, xuống, lên, xuống... Có lần xuống đến mức suýt mất chỗ đội nón! "Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể", "thân" hỡi "thân" ơi. ---------- Chen chúc lợi
danh đà chán ngắt,
Quá giả, vãng
nhi bất thuyết,
Hẹn với lợi
danh ba chén rượu,
Mặc xa mã thị
thành không dám biết,
Tuổi già cưới vợ hầu "Nãm mươi nãm trước xuân chừng hai ba"! Xuân, hạ, thu qua tuốt rồi, giờ đã 73 tuổi... đông, "mái tuyết đã phau phau", mà đi cưới "kẻ đào thơ (...) mảnh mảnh". Cô dâu trẻ đến nỗi còn... run! Thì sao chớ. "Cụ" rể là Nguyễn Công Trứ, nào phải... Việt kiều. Già, nhưng "còn dẻo còn dai", xin tân nhân chớ ngại! ---------- Trẻ tạo hóa
ngẩn ngơ lắm việc,
Trong trướng
gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Tân nhân dục
vấn lang niên kỷ,
Trong trần thế
duyên duyên nợ nợ,
Càng già càng dẻo càng dai!(T15) Kiếp sau xin chớ... (6) Bài lục bát sau đây thật lạc lõng giữa đám đông thơ hát nói và thơ Đường luật của Nguyễn Công Trứ. Có thực ông là tác giả nó chăng? Mặt khác, cái tâm trạng vui khóc, buồn cười của một người rất trải đời, tâm trạng ấy mà đem gán cho ông thì hợp quá. Giả sử Nguyễn Công Trứ trứ tác "sáu câu" này, tưởng không nên vin vào đó mà bắt ông kiếp sau phải làm cây thông! Vì ông chán đấy, rồi yêu đời đấy. Kiếp sau, kiếp sau nữa, ông còn làm người để tiếp tục "hành lạc" kiếm "lãi", tiếp tục "chơi cho đài các cho người biết tay"! -----------
Ngồi buồn mà
trách ông xanh
|
___________
(1) Xem Một Kỳ Công Tổng Hợp của Phạm Thế Ngũ, trang gocnhin.net. (2) Xem các bài Có Thần Và Thần (TT), Oai Như Gái Việt (TT), Quan Họ Và Nho Giáo (Vũ Ngọc Phan), trang gocnhin.net. (3) Cao 15 phân, đường
kính 15 phân. Xem bài Hát Ả Đào của Nguyễn Xuân Khoát.
(6) Bài thơ này không có tên. Tên đây là tạm đặt. ________________ Ngoại trừ T2, tất
cả chú thích thơ sau đây đều theo sách Thơ vãn Nguyễn
Công Trứ, nxb. Vãn Học, VN, 1983:
(T2) Chuyện đời mây nổi hỏi làm gì, nghìn vàng hết sạch rồi lại có. (T3) Phẩm đề: bình phẩm, "phẩm đề xin một vài lời thêm hoa" (Kiều). Câu nguyệt lộ: cây thơ tả trăng và sương. Chung: chén uống rượu. Tiêu sái: phóng khoáng, thanh cao. Cuộc yên hà: cuộc sống thanh nhàn ở chỗ sông núi. Tứ đàn thanh tao, nước cờ sáng suốt, câu thơ thích thú, chén rượu nồng. Chung: cái thùng đựng lương, giá muôn chung là rất giá trị. Đài các: lịch sự, phong lưu. (T4) Tế suy vật lý tu hành lạc, an dụng phù danh bạn thử thân: Xét cho kỹ thì ở đời cũng nên vui chơi, sao nỡ để công danh bó buộc thân mình. "Vật lý" là lẽ của sự vật, lẽ đời. (T5) C. 1, 2: Vua giỏi và tướng tài gặp nhau dễ, trai tài và gái sắc gặp nhau khó. C. 5,6: Người gẩy đàn tỳ bà may mắn mới gặp ông Tư mã Giang Châu (xem bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Quân tử là người đa tình nên lòng thương xót càng sâu sắc. Bãng sơn quế hải: những chỗ xa xôi. Châu Trần: tên một thôn ở Trung Quốc ngày trước ở đó có hai họ Châu, Trần đời đời làm thông gia với nhau, thường dùng để chỉ việc kết hôn xứng đôi đẹp lứa: "Thực là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn" (Kiều). Anh hùng hà xứ bất giang sơn: đối với người anh hùng ở đâu cũng là giang sơn. (T7) C. 1: Lúc nhàn ngủ dậy mặt trời đã lên cao ba con sào. C. 5, 6: Hát hay, đàn ngọt (thơ bạch tuyết giọng cao như oanh yến liệng), nhạc quân thiều tiếng vang như trống chiêng kêu. Hà nhật bất xuân phong: ngày nào mà không mát như có gió xuân. Xôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung: chăm học (xôi kinh nấu sử) rồi hưởng phú quý. "Bẻ quế thiềm cung": thi đỗ, "thiềm cung" là cung trăng, "Những mong bẻ quế nên danh, mà đền công dưỡng sinh thành hai thân" (Phạm Tải Ngọc Hoa). Mặt trăng là đàn, tiếng sấm là trống. (T10) C. 5, 6: Người ở trên đời ai không có nghề, cốt được tấm lòng son lưu truyền sử xanh. (T11) Hôi tanh: chỉ
đồng tiền có mùi tanh đồng. Tạo vật bất thị vô để
sự: tạo vật vốn không phải không làm được việc gì (nói
mỉa). Bòn chài: thu nhặt từng li từng tí, ở đây nghĩa là
tìm ra được. Đủ vuông, tròn...: tả đồng tiền hình tròn,
có một lỗ vuông ở giữa. Tượng là tượng trưng; hình tròn
tượng trưng trời, hình vuông tượng trưng đất. Khẳm họa
phúc, yên nguy, tử hoạt: khẳm là đủ; tử hoạt là chết
và sống; cả câu ý nói: đồng tiền có một sức mạnh ghê
gớm, định đoạt vận mệnh con người. Kim môn, tử thất:
cửa vàng, nhà tía, ý nói nơi quyền quý sang trọng. Mặc phao
tuồng...: phao tuồng là lộng hành, phòng nhàn là cấm đoán,
ý nói đồng tiền có thể ra vào tự do (ở những nơi quyền
quý).
(T12) Kiểng: Cảnh. "Câu kiểng" là câu thơ vịnh cảnh. C. 7, 8: hai câu thơ của Trình Tử, nghĩa là "Đạo thông ra ngoài các vật có hình trong trời đất, tứ vui nào khắp những trạng thái thay đổi của gió mây". "Tri ngã giả, bất tri ngã giả: Kẻ biết ta hay kẻ không biết ta. "Linh khâm bảo hợp thái hòa": Trong lòng luôn luôn giữ được thư thái. "Ngang tàng lạc ngã tính thiên": Không kiềm chế cái tính tự nhiên của ta. (T13) C. 1, 2: Chợ trước cửa thì ồn ào, trăng soi trước cửa thì thanh nhàn. Bầu nhân dục: lòng dục vọng của con người. C. 13, 14: Biết đủ thì đủ, đợi đủ khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ cho nhàn. C. 17, 18: Chỗ ta ngồi ngày nay, người xưa đã ngồi trước ta rồi. C. 21, 22: Tô là Tô Đông Pha, tác giả hai bài phú Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích tả tâm tình của nhà thơ khi bị biếm. (T14) C. 5: Những việc đã qua không cần nói nữa. (T15) C. 5, 6: Hoa lê ngồi áp đóa hải đường, hoa lê trắng chỉ người chồng tóc bạc, đóa hải đường chỉ người vợ trẻ. C. 7, 8: Người vợ mới muốn hỏi ông chồng bao nhiêu tuổi, trước đây 50 năm thì 23 tuổi (tức bây giờ 73). Vam: ăn khớp (tiếng địa phương). Lão Trần tức Trần Tu, đời Lê 73 tuổi đỗ tiến sĩ, vua gả cho vị công chúa 17 tuổi. |
|