Chim
Việt Cành Nam [
Trở Về ]
[ Trang chủ ]
|
|
Có
người gọi là trường phái thơ Bút Tre, có người lại nói
dòng thơ Bút Tre, tuy không hề có lý thuyết, tuyên ngôn, không
hề có chủ soái, thủ xướng phong trào, đơn giản chỉ vì
cứ nghe những câu như thế này thì ai cũng biết : thơ Bút
Tre đó :
Thi đua ta quyết tiến lênThơ Bút Tre tất nhiên là thơ của tác giả Bút Tre nhưng đồng thời cũng là thơ của ... ai đó không biết làm theo kiểu Bút Tre ( những câu trên thuộc cả hai trường hợp này). Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đang ( 1911-1987 ), người xã Đồng Lương, Sông Thao, Vĩnh Phú. Từng đỗ Tú tài Pháp, từng viết báo, in sách, dạy học, từng công tác trong ngành văn hóa, có khi lên đến chức trưởng ty. Và công việc này hẳn là nhiều lúc yêu cầu Ông phát biểu ý kiến, mà Ông lại thích phát biểu bằng ... thơ. Đại loại như thế này, nói về nhiệm vụ của ngành văn hóa hoặc ca ngợi lao động sản xuất, hô hào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp : Bây giờ đang đứng trưởng tyNhững câu "thơ" như thế chắc là không sống được lâu, nhưng Ông vẫn tiếp tục làm và nhiều lúc là ứng tác, kịp thời phản ánh một sự kiện, ca ngợi một nhân vật nào đó : Anh đi đồng ruộng lắng ngheNhiều người thấy là lạ, ngồ ngộ cái kiểu thơ đó : hình ảnh, chữ nghĩa bất ngờ, ngắt câu hạ chữ độc đáo, và nhất là cái lối đổi thanh, đổi dấu cho hợp luật trắc bằng. Mà thú vị nhất là những câu như thế chỉ được "xuất bản miệng" cho nên thiên hạ mặc sức "tái bản" và tự dành quyền chỉnh sứa, thêm thắt . Nếu "anh đi đồng ruộng lắng nghe" có người không biết anh nào đây thì cứ nói rõ ra : Hoan hô anh Nguyễn Chí ThanhVà từ đó hoan hô tiếp : Hoan hô đồng chí Phạm TuânChẳng thấy ai đòi bản quyền, mà thật ra làm sao biết được ai là tác giả đầu tiên, cứ thấy thích thì mô phỏng và sáng tác thêm, và cứ thế dần dà lúc này lúc khác, chỗ nọ chỗ kia lan truyền những bài thơ, câu thơ kiểu như vậy để hình thành một hiện tượng gọi là thơ Bút Tre dân gian. Qua bao nhiêu bài được phổ biến ta có thể rút ra mấy đặc điểm sau đây : 1. Đầu tiên là việc sử dụng những hình ảnh sáng tạo, bắt nguồn từ những liên tưởng bất ngờ, có khi tưởng như ngây ngô nhưng ngầm dụng ý gây cười : Tiễn anh lên bến ô tô2. Thứ hai là những câu thơ viết sai vần. Nên biết rằng luật thơ lục bát thường yêu cầu phải có vần : chữ thứ sáu của câu "lục" phải cùng vần với chữ thứ sáu của câu "bát", rồi chữ cuối của câu "bát" lại vần với chữ cuối của câu "lục" tiếp theo. Cô em má đỏ hồng hồng
"Hồng" và "chồng", "chưa", "đưa" và "trưa" : tất cả đều cùng một âm, như thế là vần chính. Đèo nhau ta dạo phố
vui
"Vui" và "xuôi", không cùng âm mà chỉ tương tự, "đời" và "cười" cũng vậy, như thế gọi là vần thông. Còn không cùng âm mà cũng không có âm tương tự thì đích thị là thơ lạc vận, thơ sai vần. Phải đâu muốn được
ai yêu
Lạc vận có thể vì bí, có thể vì trọng ý tứ nên hy sinh vần điệu. Nhưng thơ Bút Tre thì lạc vận một cách cố ý, để cho người đọc tự sửa lại cho có vần : - Khen thay giám đốc
sở mình
- Đồ Sơn sóng biển
dập dồn
( Thì cũng giống như Vân Tiên ngồi cạnh bụi môn / Chờ cho trăng khuất bóp ...chân Nguyệt Nga , chọn chữ nào cho hợp vần ở đây thật là gay, chả thế mà người ta dặn nhau : "Làm thơ nên tránh vần "ôn" / Uống rượu nên tránh làm ồn nói to ! ) - Trên cành con khỉ
đánh đu,
( Hai câu này khiến ta
liên tưởng đến khổ thơ đầu của bài "Con cá nhỏ và người
đánh cá ", Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine :
3. Đổi dấu các chữ cho hợp luật thơ ( Tam Đao hiểu là Tam Đảo, cần cu thay cho cần cù ...) bởi lẽ thơ lục bát yêu cầu viết đúng luật bằng (B) trắc (T) . Câu lục : Các chữ thứ 2, 4, và 6 : - B - T - B Câu bát : Các chữ thứ 2, 4, 6, và 8 : - B - T - B - B Mặt khác, hai chữ thứ 6 và 8 của câu bát tuy cùng là Bằng nhưng phải khác thanh, nếu chữ thứ 6 không dấu ( phù bình thanh ) thì chữ thứ 8 phải dấu huyền ( trầm bình thanh ), và ngược lại. Bốn câu thơ sau đáp ứng tất cả yêu cầu về bằng trắc và về thanh nói trên : Nắng chia (B) nửa bãi
(T) chiều rồi (B)
Cái việc sửa dấu thế này trong thơ Bút Tre có lúc làm cho chữ mang một nghĩa khác : Một lần đến nghỉ Tam Đao,4. Ngắt câu, xuống dòng bất ngờ. Dòng trên chưa hết ý, phải đọc tiếp dòng sau mới hiểu, kiểu như " Lúa ở đồng tôi và lúa ở / Đồng nàng và lúa ở đồng quanh" - Nguyễn Bính ). Nhớ nhung về thị xã PhanCũng có khi dòng trên đã có nghĩa, nhưng nối với dòng sau lại là nghĩa khác : Chị em nô nức đặt vòng5. Từ một bài, một câu thơ Bút Tre không rõ tác giả, mọi người có thể thêm bớt, mô phỏng và đưa ra câu khác, không ngại ai nói đạo văn, đạo thơ gì. Hai câu sau đây, phổ biến từ lâu, hầu như ai cũng biết : Anh đi công tác Pơ Lâyđược ai đó thêm vào : Còn em em ở lại nhàhoặc sửa một chữ rồi viết tiếp : ... Ku dài dằng dặc biết ngày nào vêCũng mấy câu quen thuộc khác : Chưa đi chưa biết Đồ SơnVà nhiều người tiếp tục cải biên : Chưa đi chưa biết Vũng TàuTừ hai câu " Nhớ nhung về thị xã Phan / Thiết tha tơ tưởng cô hàng nước măm ", có người đã nối theo : Vội vàng về thị xã PhanVà : Gặp nhau ở thị trấn PhanCó thể nói đặc điểm thứ năm này đã làm nên sức sống cho thơ Bút Tre, làm cho nó tồn tại, phát triển, lan truyền rộng khắp. Ai cũng đã từng nghe, từng thuộc, từng làm, từng phổ biến loại thơ này, trong Nam ngoài Bắc, người già người trẻ, trí thức bình dân, có cơ hội là viết cho nhau đọc, đọc cho nhau nghe để cùng cười với nhau. Có khi chỉ là tiếng cười dễ dãi, vô thưởng vô phạt.( Chồng người du kích sông Lô / Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần ). Mà đâu chỉ có vậy, đọc đi rồi đọc lại, nghe qua và nghe nữa thì mới thấy tiếng cười của thơ Bút Tre là tiếng cười của truyện tiếu lâm dân gian, của hò vè, ca dao. Nó phản ánh muôn mặt đời sống xã hội một cách trào lộng, châm biếm và nhiều khi ngụ ý phê phán nữa. Người ta thích câu "Mừng ngày bầu cử tự do / Những người xứng đáng thì cho vào hòm " đâu phải chỉ vì tác giả chơi chữ ( hòm = hòm phiếu, thùng phiếu, và hòm = quan tài ) ! Nhiều câu nghe có vẻ ngây ngô, ngớ ngẩn ( Từ trong hang đá đi ra / Vươn vai một cái rồi ta đi vào ) nhưng phải chăng chỉ là sự ngớ ngẩn giả vờ để diễu cợt. ( "... Hàng đầu không biết đi đâu / Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi." " Mấy ông lãnh đạo của mình / Trước rất ghét Mỹ nay hình như thương !" ). Trên hết thảy vẫn là cái thông minh, dí dỏm thường thấy trong văn học dân gian, không hề thô sơ, thô thiển mà đầy tính nghệ thuật , với nhiều biện pháp tu từ, chơi chữ , nào điệp âm điệp ngữ, ngoa ngữ, nói lái, nào từ đống âm, từ nhiều nghĩa, chuyển đổi từ loại ... Bốn ông chung một dĩa lòngTất nhiên bên cạnh những người thích thơ Bút Tre vẫn có người không thích, thậm chí chê, nhưng ai cũng phải thừa nhận : hiện tượng thơ Bút Tre, với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên, là có thật, một hiện tượng khá độc đáo chưa từng thấy trong văn học nước nhà. Thơ Bút Tre đã và vẫn đang đi vào quần chúng. Khen chê thì cũng chẳng sao
|
---------------------------
Tài liệu tham khảo :
|
|