Trong bài thơ ký tên
Chí Hiên tặng, của Nguyễn Du còn lưu lại trong Lưu Hương
Ký của Hồ Xuân Hương có hai câu thơ:
Ra Bắc phen này mong
nỗi việc,
Vào Nam ngẫm trước
cũng hoài công.
Nguyễn Du cho rằng việc
vào Nam từ năm 1794 đến 1796 là hoài công, vô ích. Và mong
rằng việc ra Bắc năm 1796 sẽ làm nên việc. Sau khi trở về
Hồng Lĩnh, làm người đi săn núi Hồng, tìm lại dấu tích
cuộc khởi nghĩa của người anh thứ tư Nguyễn Quýnh (1761-
1791) chống Tây Sơn, Nguyễn Du thấy bế tắc không thể lập
lại việc làm hoài Lê của anh, chỉ gây tai hoạ làng Tiên
Điền bị đốt cháy, bị làm cỏ. Nguyễn Du không tìm ra bạn
đồng chí hướng, mọi người đều sống trong sợ hãi, khóc
cười theo thời. Nguyễn Du xoay ra tìm đường làm Nam Hải
Điếu Đồ (người đi câu biển Nam) ra đảo Song Ngư tìm đường
theo thương thuyền đi Nha Trang, nơi chúa Nguyễn đã đánh chiếm
tới thành Diên Khánh. Công việc bại lộ Nguyễn Du bị Quận
Công Nguyễn Văn Thận, Trấn Thủ Hà Tĩnh bắt giam 10 tuần
(ba tháng 10 ngày). Nể tình bạn Nguyễn Nể, Quận Công Thận
tha cho Nguyễn Du.
Công việc xây dựng
từ đường họ Nguyễn Tiên Điền, các đền thờ, chùa Trường
Ninh, cầu Tiên đã tạm xong, mọi việc có em Nguyễn Ức lo
liệu. Tiền bạc anh Nguyễn Nể cho cũng có hạn. Nguyễn Du
ở lại cũng chẳng làm gì. Dân làng Tiên Điền sau cơn hoạn
nạn nghèo đói xơ xác, người bạn Thực Đình dạy học vất
vả cũng không đủ ăn. Người xứ Nghệ sau khi học sách vở
thánh hiền, lên đường thi cử, đỗ thì làm quan, không đổ
thì đi khắp bốn phương trời tìm nơi dạy học, hay làm thầy
thuốc, thầy bói, thầy địa lý.. Chẳng lẽ Nguyễn Du lại
ở lại mở trường kế bên cạnh tranh với bạn Thực Đình,
chỉ no khi ăn ở đình làng, ở lại cũng chẳng ai thuê mướn
ông Tam Trường con quan Xuân Quận Công chầm nón hay đi cày
thuê ! Bài thơ Khuất Thực, trong Thanh Hiên Thi tập cho chúng
ta thấy bế tắc của Nguyễn Du trong hoàn cảnh này: Chống
gươm ngạo nghễ muốn thét to trong trời xanh. Ba chục tuổi
rồi, đời như hoa sen trong bùn hôi tanh. Sách vỡ có ích gì
cho cuộc sống mỗi ngày. Nào ngờ đâu vì đói rách mà có
người thương tâm cho áo cơm. Bài thơ Nguyễn Du làm năm 1796
năm 30 tuổi trên đường đi ra Bắc, đi bộ từ Hồng Lĩnh
ra Thăng Long, sau khi ở tù ra. Vì nếu ở Tiên Điền, hay Thăng
Long cũng có anh em, bà con, bạn bè đùm bọc không đến nỗi
rách rưới.
XIN VĂN
Chống gươm ngạo
nghễ thét trời xanh,
Ba chục năm trong
bùn hôi tanh.
Chữ nghĩa ích gì
cho cuộc sống,
Nào ngờ đói rách
người thương tâm.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
KHUẤT THỰC
Tằng lăng trường
kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê
đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng
vi ngã dụng,
Cơ hàn bất giác
thụ nhân liên.
Chú thích:
Tằng lăng: Tự điển
Từ Nguyên: dáng cao hiểm. Bản Trương Chính dịch: Ngạo nghễ.
Bản Đào Duy Anh dịch : Ngất ngưỡng.
Trường kiếm ỷ thanh
thiên: Kiếm dài như tựa tới trời xanh. Nguyễn Du tựa thanh
kiếm dài lòng phẩn nộ muốn thét lên hỏi trời xanh. Chí
cao mà phải lăn lóc trong bùn lầy, vì đói rách khiến người
động lòng thương.
Bài Qua sông Long Vĩ ,
Nguyễn Du từ giả làng Tiên Điền. Nhìn lại quê hương mà
rơi lệ. Vì Tây Sơn mà mình phải lìa bỏ quê hương. Vừa
qua sông Long Vĩ (một đoạn của sông Lam) đến huyện Nghi
Lộc đã là người khách tha hương. Giữa bãi cát trắng mái
đầu trông bạc. Trên không trung tiếng chim hồng nhạn lạc
bầy kêu áo não. Các em: Nguyễn Ức, Nguyễn Nhưng, Nguyễn
Lang, các cháu Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện, Nguyễn Công.. trên
bến tiễn đưa. Vì ta mà lệ ướt khăn.
QUA SÔNG LONG VĨ
Ngoãnh nhìn quê rơi
lệ,
Gió Tây cuốn bụi
đường.
Vừa qua sông Long
Vĩ,
Đã là khách tha hương.
Giữa cát đầu trông
bạc,
Trùng khơi lạc tiếng
hồng.
Thân bằng trên bến
vọng,
Vì ta lệ ướt khăn.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ
Độ LONG VĨ GIANG
Cố quốc hồi đầu
lệ,
Tây phong nhất độ
trần,
Tài qua Long Vĩ thủy,
Tiện thị dị hương
nhân,
Bạch phát sa trung
hiện,
Ly hồng hải thượng
văn.
Thân bằng tân khẩu
vận,
Vị ngã nhất triêm
cân.
Triêm cân: Ngày xưa có
chiếc khăn quấn tóc trên đầu tóc búi tó, khi khóc lấy xuống
lau nước mắt, thuở ấy chưa có khăn mù xoa như thời Tây:
Nước
mắt nhỏ sa anh lấy mù xoa anh chậm, tình nghĩa vợ chồng
ngàn dậm không quên. Thơ Trần Tuấn Khải. Tiễn anh Khóa
xuống tàu.
Bài Dạ hành cho thấy
Nguyễn Du đi trong đêm, có lẽ đi lén không "báo cáo" cho Trấn
Thủ Nguyễn Văn Thận biết: Sư già yên giấc đỉnh mây Hồng,
có lẽ canh tý (11 giờ đến 1 giờ sáng) nhà sư sau khi tụng
kinh công phu đang ngủ ngon giấc trong một ngôi chùa ẩn trong
mây trên núi Hồng. Trên bờ sông Lam chim âu trắng nằm yên
ấm trên bãi cồn. Ánh trăng xế trên biển Nam chiếu ngàn
dậm. Nguyễn Du ra đi trong một đêm trăng sáng, đi dọc theo
bờ biển từ Tiên Điền ra tới Tam Điệp rồi đi Vị Hoàng,
lên Thăng Long,( ngày xưa đi bộ cũng mất vài tuần hay cả
tháng vì vừa đi vừa nghỉ. Vua Quang Trung năm 1789 đi hành
quân từ Phú Xuân ra Thăng Long, hai người cáng một người
thay phiên nhau đi thần tốc cũng vài tuần, năm 2011, tôi đi
đoạn đường này bằng xe lửa chỉ mất một buổi, đi qua
Quãng Bình nơi Nguyễn Du làm quan, qua Hà Tĩnh quê hương nhà
thơ, nhớ người xưa đi thật cực khổ, gian nan nhất là qua
đèo Ba Dội: một đèo, một đèo lại một đèo, đường đi
qua đèo lắm cọp, sông Lam thời ấy lại có nhiều cá sấu..).
Trên đường xa gió lạnh như dồn vào một thân mình. Đi suốt
đêm trên bờ biển chờ ngày sáng. Tiếc mình đầu bạc mà
dấu
thân vụng về để một lần bị bắt. Đêm khuya không lo sương
ướt áo, mừng râu mày không nhuốm bụi phong trần.
ĐI ĐÊM
Sư già yên giấc đỉnh
mây Hồng,
Âu trắng nằm yên
ấm bãi cồn.
Trăng xế biển Nam
ngàn dậm chiếu,
Đường xa gió lộng,
một người trông.
Đêm đen mờ mịt,
bao giờ sáng,
Đầu bạc mà còn,
vụng dấu thân.
Khuya khoắt không
lo sương ướt áo,
Râu mày mừng chẳng
bụi phong trần.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
DẠ HÀNH
Lão nạp an miên Hồng
Lĩnh vân,
Phù âu tĩnh túc noãn
sa tân.
Nam minh tàn nguyệt
phù thiên lý,
Cổ mạch hàn phong
cộng nhất nhân.
Hắc dạ hà kỳ mê
thất hiểu,
Bạch đầu vô lại
chuyết tàn thân,
Bất sầu cửu lộ
triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất
nhiễm trần.
Bài Dao Vọng Càn Hải
Từ, Nguyễn Du viết trên đường đi qua cửa Cồn huyện Quỳnh
Lưu, Nghệ An, thờ Dương Thái Hậu, vợ vua Tống Độ Tông,
Trung Quốc. Khi nhà Tống mất nước vì Mông Cổ, bà cùng hai
người con gái lên thuyền ra bể, sang Đại Việt lánh nạn
lánh nạn. Theo truyền thuyết thuyền đắm, xác giạt vào cửa
Cồn, người địa phương chôn cất và lập đền thờ. Bài
Xa trông đền Cờn, Nguyễn Du tả : Nước biển mênh mông tiếp
đến sao Đẩu, thấp thoáng ngôi đền đứng lẻ loi giữa
bãi cát nhỏ. Buổi chiếu chìm cây cổ thụ lạnh lẽo liền
với bến chim phù đậu. Mùa thu, làn khói lúc trời lạnh mát
dịu bay ra cửa biển. Kêu trời các bậc tướng văn tướng
võ dốc cả lòng son. Vỗ đất Quỳnh Nhai (Quảng Đông) không
còn một ai là dòng giống nữa. Đáng cười thay ả Minh Phi
Vương Chiêu Quân ra ở ngoài cửa ải, gảy đàn tỳ bà, rót
rượu mời chúa Thiền Vu..
XA TRÔNG ĐỀN CỜN
Mênh mông mặt bể
nối sao trời.
Thấp thoáng bãi vàng
đền lẻ loi.
Chiều lạnh cây cao
chim tối đậu.
Mác man cửa bể tỏa
sương trôi.
Thét trời khanh tướng
lòng son quyết,
Vỗ đất Quỳnh Nhai
vua hết rồi.
Cười ả Minh Phi
ra cửa ải
Tỳ bà chuốt rượu
Thiền Vu vui.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt :
DAO VỌNG CÀN HẢI TỪ
Mang mang hải thủy
tiếp thiên xu,
Ẩn ước cô từ
xuất tiểu chu.
Cổ mộc hàn liên
phù chữ mộ,
Tình yên thanh dẫn
hải môn thu.
Hào thiên tướng
tướng đan tâm tận,
Phủ địa Quỳnh
Nhai khối nhục vô.
Tiếu nhĩ Minh Phi
trường xuất tái,
Tỳ bà bôi tửu khuyến
Thiền Vu.
Chú Thích:
Thiên Xu: Sao đầu trong
bày ngôi sao Bắc Đẩu, còn gọi là sao Bắc Cực, đây chỉ
nơi thiên đế ở, hàm chỉ vua Tống.
Tướng tướng đan tâm
tận: Lúc Tống thất thế, Trương Thế Kiệt, tướng võ đem
Dương Thái Hậu và con là Đế Bính, chạy ra Quỳnh Nhai, tỉnh
Quảng Đông, Quân Nguyên Mông Cổ theo tới nơi. Lục Phú Tư
tướng văn, cõng Đế Bính nhảy xuống biển. Dương Thái Hậu
và hai con gái xuống thuyền trốn, thuyền đắm xác trôi dạt
vào Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nước ta, dân chúng an táng lập
đền thờ tại Cửa Cờn. Tướng Trương Thế Kiệt cũng đắm
thuyền chết.
Khối nhục: khối thịt,
ý nói dòng dõi. Dương Thái Hậu hay tin con là Đế Bính đã
chết, khóc mà nói rằng: Ta sở dĩ chịu gian khổ để sống
đến ngày nay là vị họ Triệu Tống mà gìn giữ một khối
thịt ấy, nay đến nỗi này, ta còn mong gì ?
Minh Phi: tức Vương Chiêu
Quân, cung nhân của vua Hán Nguyên Đế cống cho vua Hồ, Thiền
Vu. Thời Tấn húy tên Tư Mã Chiêu nên đổi là Minh Phi. Câu
này ý khen bà Dương Thái Hậu không chịu rơi vào tay giặc.
Những sự kiện trên chứng tỏ Trung Quốc không phải thời
nào cũng mạnh, mà có những triều vua bạc nhược phải đem
cung nhân yêu quý của nhà vua cống cho các vua các bộ lạc
ở Tân Cương để được yên thân. Cuối đời Tống, Vạn
Lý Trường Thành không ngăn nổi Trung Quốc bị mất nước,
Mông Cổ cai trị hơn trăm năm, trong khi Việt Nam vẫn giữ
độc lập ba lần đánh bại Mông Cổ. Cuối nhà Minh, bị Mãn
Thanh xâm chiếm cai trị bốn trăm năm, người Trung Quốc phải
nhục nhã ăn mặc để tóc bính theo người Mãn Thanh, gặp
người Mãn Thanh phải quỳ nộp xưng tụng: Mãn Đại nhân,
từ đó có chữ Mandarin trong ngôn ngữ Tây Phương. Những thời
kỳ Trung Quốc mất nước, Việt Nam là nơi tiếp nhận làn
sóng tị nạn, nuôi dưỡng người Trung Quốc.
Bài Tái du Tam Điệp
Sơn, làm trên đường Nguyễn Du từ Hồng Lĩnh đi bộ ra Thăng
Long năm 1796. Đèo Ba Dội cao ngất tầng mây, khách bên trời
lại qua đèo lần nữa, mắt nhìn thu tóm cả mặt đất. Ngoài
biển xa thấy các thuyền đánh cá, khí núi tan, trông hình
núi gầy. Trời lạnh cây cỏ dàu dàu. Kẻ đi đường ngoảnh
nhìn lại, xiếc bao nỗi buồn nhớ quê hương.
LẠI VƯƠÏT NÚI TAM ĐIỆP
Mây vương núi Tam
Điệp,
Bên trời khách lại
qua,
Trong mắt trời đất
rộng,
Thuyền chài ngoài
biển xa.
Sương tan gầy dáng
núi,
Trời lạnh úa cỏ
hoa.
Người đi đường
ngoảnh lại,
Bao nỗi nhớ quê
nhà.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
TÁI DU TAM ĐIệP SƠN
Văn tế sơn Tam Điệp,
Thiên nhai khách tái
du,
Nhãn trung thu đại
địa,
Hải ngoại kiến
ngư chu.
Chướng tĩnh phong
loan sấu.
Thiên hàn thảo mộc
thu,
Hành nhân hồi thủ
xứ.
Vô ná cố hương
sầu.
Nguyễn Du về trở lại
Thăng Long năm 1796, không khỏi xúc động nhìn phủ Chúa Trịnh,
sau mười năm. Mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ 1786. Nguyễn
Hữu Chỉnh, thuộc hạ Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh giết,
đầu hàng nhà Tây Sơn được Nguyễn Huệ phong làm làm tiên
phong đem quân Tây Sơn ra Bắc phò Lê diệt Trịnh. Nhưng Nguyễn
Huệ không tin ông, nên rút quân bất ngờ bỏ Nguyễn Hữu
Chỉnh ở lại. Nguyễn Hữu Chỉnh dựa vào vua Lê đánh dẹp
được Trịnh Bồng. Vua Lê Chiêu Thống lợi dụng thời cơ
Án Đô Vương Trịnh Bồng bỏ trốn lúc ban đêm, tức thì
sai người đốt hết phủ chúa Trịnh. Công trình xây dựng
243 năm, phủ chúa cháy mười ngày chưa tắt, bao nhiêu lâu
đài cung điện bị đốt cháy giờ đây chỉ còn một bãi
đất hoang. Năm 1787, Nguyễn Hữu Chỉnh bị Vũ Văn Nhậm tướng
Tây Sơn hành hình tứ mã phân thây. Vũ Văn Nhậm chuyên quyền
lại bị Nguyễn Huệ giết. Vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu
nhà Thanh. Năm 1789 quân Thanh sang nước ta. Vua Quang Trung Nguyễn
Huệ đem quân phá tan, sông Nhị Hà tắt nghẽn vì máu và xác
quân Thanh đứt cầu phao chết đuối. Đống Đa, Hà Hồi, Ngọc
Hồi những trận chiến còn tanh máu người.
Bài Bát muộn, Xua nỗi
buồn Nguyễn Du viết: Cát bụi che mờ thềm ngọc đã mười
năm, thành phủ xây dựng Hơn ba trăm năm nhà Lê, một nửa
đã thành gò hoang, những loài chim sâu nhỏ bé đều bay hết
cả. Sau cuộc huyết chiến, chỉ còn lại cõi càn khôn nhơ
nhớp. Quê nhà trong cơn binh lửa Nguyễn Du ở Vân Nam, Liễu
Châu rồi Trường An cách xa Thăng Long ngàn dậm nước mắt
tuôn rơi. Bạn bè, anh em chỉ còn lại mấy hàng thu dưới
đèn. Đêm thu vắng rồng cá lặng lẽ. Trăm mối u hoài không
ngủ yên được.
XUA NỖI BUỒN
Bụi mờ thềm ngọc
đã mười năm,
Thành phủ trăm năm
nửa đã hoang.
Chim quạ sâu trùng
bay hết cả,
Đất trời huyết
chiến máu còn tanh.
Quê hương binh lửa
xa ngàn khóc,
Bè bạn đèn khuya
thư mấy hàng.
Rồng cá lặng lờ
đêm vắng vẻ,
U hoài trăm mối dạ
tơ vương.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
BÁT MUỘN
Thập tải trần ai
ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ
bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu
cao phi tận,
Trỉ uế càn khôn
huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền
thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ
sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc
nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài
vị nhất sư.
Chú thích:
Ngư Long: lấy từ ý
thơ Đỗ Phủ: Ngư Long tịch mịch giang thu lãnh. Cá rồng lặng
lẽ sông thu lạnh.
Về Thăng Long trước
tiên Nguyễn Du tìm đến Cổ Nguyệt Đường. Bài thơ ký tên
Chí Hiên tặng I, Nguyễn Du oán trách Hồ Xuân Hương thậm
tệ. Hồ Xuân Hương vẫn trân trọng chép trong Lưu Hương Ký,
chứng tỏ nàng vẫn còn yêu Nguyễn Du đến bậc nào.? Nguyễn
Du bị tù, mẹ đã gả Hồ Phi Mai cho anh thầy lang xóm Tây
làng Nghi Tàm, cũng là học trò cụ Đồ Diễn.
Nguyễn Du viết: Đã
giao du với nhau mấy năm tròn, thề thốt tình thâm giao mãi
còn, không biết tại lòng nàng thay dạ đổi lòng, lòng đen
tựa mực đi lấy chồng thầy thuốc, còn tôi tù tội mới
ra, tình tôi vẫn yêu nàng thắm như son, một lòng yêu nàng.
Tai tôi chưa quên lời vàng ngọc của nàng, nàng có mắt hãy
xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non. Chớ trách cúa xuân,
vì sợ chờ đợi tôi mà mỏi mệt vì sợ lỡ thì. Tình nàng
sớm mận tối đào như thế có xứng đáng dòng dõi con nhà
quyền quý chăng? Có bài thơ trách móc nào đau đớn hơn ?
CHÍ HIÊN TẶNG I
Chữ giao nguyền với
mấy năm tròn,
Xe nón tình kia mãi
mãi còn.
Chẳng biết dạ người
đen tựa mực,
Sao hay lòng khách
thắm như son.
Còn tai chữa vãng
lời vàng ngọc,
Có mắt càng xem mặt
nước non.
Chớ trách chúa Xuân
lòng mỏi mệt,
Mận đào được
thế tiếng công môn ?
Thơ chữ Nôm Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương Ký.
Chú thích:
Xe nón: do chữ xạ lạp
theo sách Phong Thổ Ký, tục nước Việt thuần phác. Trong buổi
sơ giao, hai bên làm lễ kết nghĩa, thường có lời thề: Anh
cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau anh sẽ xuống xe vái chào
tôi. Anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau tôi sẽ xuống
ngựa chào anh. Thơ Khổng Bình Trọng: Vạn sự biến đổi
khôn lường, Chớ vì cỡi xe mà khinh kẻ đội nón. Vì thế
tình bạn thân gọi là xạ lạp chi giao, tình xe nón.
Bài Chí Hiên tặng I
I. Nguyễn Du không trách móc nữa mà bày tỏ nỗi lòng mình.
Rũi may nào xá gì, theo Kinh Dịch: cùng tất thông, thông tất
biến, biến tất hóa. Chưa dễ gặp được tri âm để bày
tỏ nỗi lòng. Ra Bắc phen này mong làm nên nỗi việc. Ngẫm
lại việc vào Nam năm 1794 cũng hoài công, tại Hồng Lĩnh không
thể làm được việc gì, vì sau trận chiến của Nguyễn Quýnh,
người sống sót e sợ, thờ ơ. Muốn vượt biển vào Nam theo
chúa Nguyễn cũng thất bại, bị tù. Bạn thơ nay đâu, ngồi
uống trà một mình, trà hết châm thêm nước sôi uống trà
nhạt. Quán trọ đêm năm canh lạnh vì manh áo quá mong manh.
Trông ra sông biển khói bay mù mịt, Người xưa Cổ Nguyệt
đường lòng như tấm gương trong giờ chẳng thấy đâu.
CHÍ HIÊN TẶNG Bài II.
Rủi may nào sá nghĩ
cùng thông,
Chưa dễ tri âm tỏ
nỗi lòng.
Ra Bắc phen này mong
nỗi việc.
Vào Nam ngẫm trước
cũng hoài công.
Bạn tao năm hết
mâm trà lạt,
Quán khách canh chày
mảnh áo mong.
Gớm nhẽ trông ra
mù khói bể,
Nguyệt Đường bao
nả thấy gương trong.
Thơ chữ Nôm Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương Ký.
Chú thích:
Quán khách: quán do người
khách trú (Hắc ka) gốc Hải Nam lập ra cho người đi đường
ở trọ.
Bạn tao: bạn tao đàn,
do chữ Ly tao của nhà thơ Khuất Nguyên.
Cổ Nguyệt đường:
nhà Hồ Xuân Hương.
Thất vọng trước tình
duyên tan vỡ, Nguyễn Du tìm đến nhà người bạn văn chương
Đoàn Nguyễn Tuấn. Đoàn ra làm quan Tây Sơn, nên xây dựng
trên bờ sông Nhị một ngôi nhà khang trang: Thác lạc nhân
gia nhị thủy tân. Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân. Đông
Tây kiều các kiêm thiên khởi. (Đại nhân hý bút) Bên
bờ sông Nhị nhà chen gần. Đã chiếm cả thành hết cảnh
xuân. Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng.. Nhà Đoàn Nguyễn
Tuấn có kém gì nhà các quan, các siêu sao ngày nay ! Trong lầu
ngọc ấy lại có một cô gái tên Đoàn Nguyễn Thị Huệ vừa
21 tuổi, mất cha năm lên một được ông anh cả Đoàn Nguyễn
Tuấn nuôi dưỡng. Lúc ấy anh Nguyễn Nể làm Hành Khánh Sứ
(Chánh Sứ) sang nhà Thanh mừng lễ truyền ngôi vua Càn Long
cho vua Gia Khánh vừa về tới. Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn
Tuấn tác hợp cho Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Thị Huệ và giao
cho gia trang ở Quỳnh Hải. Từ nay 30 tuổi, Nguyễn Du chấm
dứt cuộc đời mười năm gió bụi. Nguyễn Du dạy văn, dạy
võ và hoàn tất Truyện Kiều. Đoàn Nguyễn Thị Huệ quay tơ,
dệt lụa. Bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu Nguyễn Du viết về cuộc
sống hạnh phúc ở Quỳnh Hải. Đêm rằm tháng giêng, trăng
sáng tỏa ngập tràn hạnh phúc. Tình yêu của Đoàn Nguyễn
Thị Huệ mặn nồng chu đáo với chồng, lòng Nguyễn Du như
ánh trăng chiếu ấm cúng bên vợ. Một trời xuân hứng như
lạc cả vào nhà ai. Ánh trăng Quỳnh Châu soi rõ muôn nghìn
dậm. Khác với nơi quê hương Hồng Lĩnh, anh em kẻ mất người
còn: Anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều, Nguyễn Trụ, Nguyễn Quýnh,
em Nguyễn Tốn đã mất. Chỉ còn anh Nguyễn Nể bôn ba đi
sứ, làm quan chống đỡ sự sụp đổ của gia đình, gầy
dựng lại gia trang. Các chị, em gái đi lấy chồng xa quê,
chỉ còn lại Nguyễn Nhưng, Nguyễn Ức, Nguyễn Lang. Những
ngày tháng giang hồ, đa hận bạc đầu qua nhanh. Bước đường
cùng, bị tù, người yêu đi lấy chồng, không ngờ lại lấy
vợ, tìm thấy hạnh phúc nơi người vợ mới cưới. Mình
đã trải qua góc biển chân trời nay đã ba chục tuổi rồi.
ĐEâM RẰM THÁNG GIÊNG
Ở QUỲNH HẢI
Trăng sáng đầu xuân
tỏa ngập tràn,
Bao giờ trăng chẳng
nhạt thuyền quyên.
Một trời xuân hứng
nhà ai lạc,
Muôn dậm Quỳnh Châu
nguyệt sáng ngần.
Hồng Lĩnh không nhà
huynh đệ vắng,
Bạc đầu đa hận
tháng ngày nhanh.
Đường cùng trăng
vẫn còn soi đến,
Góc biển chân trời,
ba chục năm.
Thơ Thanh Hiên thi tập
Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU
Nguyên dạ không đình
nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu
thuyền quyên.
Nhất thiên thi hứng
thùy gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu
thử dạ viên.
Hồng lĩnh vô gia
huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận
tuế thời thiên.
Cùng đồ liên nhữ
giao tương kiến,
Hải giác thiên nhai
tam thập niên.
Chú thích:
Quỳnh Hải: Huyện Quỳnh
Côi, thời Gia Long thuộc trấn Sơn Nam Hạ, năm 1831 thời Minh
Mạng mới chia thành tỉnh Thái Bình và tỉnh Nam Định. Vùng
đất giáp biển tỉnh Thái Bình, nên Nguyễn Du gọi là Quỳnh
Hải hay Quỳnh Châu.
Thuyền quyên: dáng đẹp
đẽ dễ thương, chỉ người phụ nữ. Hay phụ nữ tự xưng
mình. Trai anh hùng, gái thuyền quyên (Kiều). Giang sơn
một gánh giữa đồng, thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng
? Cô đào về già nhân buổi hát nhắc lại cho quan Binh Bộ
Thượng Thư Nguyễn Công Trứ, nhớ, ngày xưa chàng từng giả
làm nhạc công xách đàn theo hầu nàng, nhân một hôm hai người
giữa đồng không mông quạnh, chàng bảo quên đàn sai tiểu
đồng đi về lấy, và chàng đã làm gì, thiếp đã ứ hự,
chàng có nhớ chăng ? Nguyễn Du dùng chữ thuyền quyên để
chỉ Đoàn Nguyễn Thị Huệ, thì chắc nàng tài sắc, xứng
đôi vừa lứa, cũng chẳng kém gì Xuân Hương Hồ Phi Mai. Các
chú thích cũ cho rằng thuyền quyên chỉ ánh trăng không đúng.
HỒ XUÂN HƯƠNG BÀ LANG
KHÓC CHỒNG
Lo lắng trước tình
duyên của con gái, đã hai mươi bốn tuổi mà vẫn còn chờ
đợi Nguyễn Du, ngày cưới hỏi vẫn chưa thấy đâu. Xóm
Tây, con thầy Lang làng Nghi Tàm cậy mai mối đến hỏi cho
con trai, cũng làm nghề thầy lang, cũng là học trò cụ Đồ
Diễn. Gả con về Hà Tĩnh cách trở xa đường, còn con thầy
Lang dầu sao cũng xóm làng gần. Hồ Xuân Hương gửi thơ bao
lần thúc dục Nguyễn Du, Bài thơ nguyên là một ghi chú dài
dòng nhân có ông .. về Hồng Lĩnh gửi thơ cho chàng: Vài hàng
viết thơ gửi chàng mà nước mắt rơi lai láng, nghĩ tưởng
rằng em sẽ chờ đợi chàng được lâu. Nhìn lá nhuộm sương
buổi ban mai mà lòng thêm thẹn, màu sương khói chỉ làm rộn
thêm nỗi sầu. Em thờ thẩn trước nhà, nhà đang sửa soạn
chưng diện đám hỏi, lòng em trống trải, như nhà chưng diện
để khoe với gió. Vì lòng em đã chán nghe những lời tán
tỉnh của anh Lang như tiếng địch (tiêu, sáo dọc) thét bên
tai, anh chàng thổi sáo dỡ, lại cứ đem địch thổi bên tai
nghe chói như tiếng thét (ngày nay, đàn vĩ cầm dỡ mà đi
tán gái, không cần người yêu than chói tai, hàng xóm cũng
lấy trộm mất cây đàn vĩ cầm). Muốn hỏi trăng già sao
khe khắt với tình yêu đôi ta, trêu nhau chi mà se những mối
tơ không trọn vẹn để cho đôi ta phải xa nhau !
HỌA NHÂN
Vài hàng chữ gấm
chạnh niềm châu,
Nghĩ tưởng năm canh
nguyệt hé lâu.
Lá nhuộm thức lam
thêm vẻ thẹn,
Sương pha khói biếc
rộn cơn sầu.
Thẩn thơ trước
viện nhà khoe gió,
Đồng vọng tai nghe
địch thét đâu ?
Ướm hỏi trăng già
khe khắc bấy,
Trêu nhau chi những
sợi cơ cầu.
Thơ Hồ Xuân Hương Lưu
Hương Ký
Trước sự nguy cấp
của tình hình Nguyễn Du, không biết hành động gì hơn,
đã trả lời bài thơ này bằng bài Ký mộng: Thời gian qua
nhanh như nước chảy ngày đêm, anh như người du tử ở biệt
mãi chốn quê hương. Bao năm rồi không gặp mặt lại, nói
làm sao hết những nhớ thương, chỉ còn biết gặp nhau trong
mộng, đêm qua anh mơ thấy rõ ràng, em đến tìm anh nơi bến
sông Giang Đình. Dung nhan vẫn như ngày xưa, áo tứ thân không
buồn chăm sóc. Thoạt tiên em kể nỗi đau ốm, rồi than thở
những ngày xa nhau, sụt sùi không nói hết, như cách một bức
màn. Bình sinh em không thuộc lối, mộng hồn không biết thực
hay không. Núi Tam Điệp nhiều hổ trĩ, sông Lam lắm cá sấu.
Đường đi hiểm trở khó khăn, không biết có nhờ cậy ai
? Mộng đến ngọn đèn cô đơn giọi sáng, mộng tan gió thổi
lạnh lùng. Người đẹp của lòng anh không thấy nữa, Lòng
anh rối như tơ vương. Nhà trống ánh trăng xế soi vào, chiếu
trên tấm áo cô đơn của anh.
GHI LẠI GIẤC MỘNG
Dòng nước ngày đêm
chảy,
Người biệt chốn
cố hương.
Bao năm không gặp
mặt,
Làm sao hết nhớ
thương ?
Trong mộng rành rành
thấy,
Tìm ta nơi bến sông,
Dung nhau vẫn như
trước,
Y trang buồn biếng
chăm.
Trước kể nỗi đau
ốm,
Rồi than những ngày
xa,
Nghẹn ngào không
nói hết,
Dường cách bức
màn sa.
Bình sinh không thuộc
lối,
Mộng hồn biết thật
chăng ?
Núi Điệp đầy hổ
báo,
Sông Lam lắm thuồng
luồng.
Đường đi thật
hiểm trở,
Phận gái nhờ ai
không ?
Mộng đến đèn côi
sáng.
Mộng tan gió lạnh
lùng.
Giai nhân nào thấy
nữa,
Lòng ta rối tơ vương.
Nhà trống vầng trăng
xế,
Soi manh áo cô đơn.
Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt :
KỲ MỘNG
Thệ thủy nhật dạ
lưu,
Du tử hành vị qui.
Kinh niên bất tương
kiến,
Hà dĩ uý tương ti
(tư).
Mộng trung phân minh
kiến,
Tầm ngã giang chi
mi.
Nhan sắc thị trù
tích,
Y sức đa sâm si.
Thỉ ngôn khổ bệnh
hoạn,
Kế ngôn cửu biệt
ly.
Đái khấp bất chung
ngữ,
Phảng phất như cách
duy.
Bình sinh bất thức
lộ,
Mộng hồn hoàn thị
phi.
Điệp sơn đa hổ
trĩ,
Lam Thủy đa giao ly.
Đạo lộ hiểm thả
ác,
Nhược chất tưong
hà y ?
Mộng lai cô đăng
thanh,
Mộng khứ hàn phong
xuy,
Mỹ nhân bất tương
kiến,
Nhu tình loạn như
ti.
Không lâu ốc tà
nguyệt;
Chiếu ngã đan thường
y.
Chú thích:
Cách duy: cách bức màn.
Hoàng hậu vua Hán Vũ Đế là Lý Phu Nhân, sắc đẹp, múa giỏi,
chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ
nói có thể chiêu hồn Lý Phu Nhân về, vua bằng lòng. Ban đêm
người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi trong
màn, nhìn sang bức màn khác, thấy bóng người giống Lý Phu
Nhân.
Nhược chất: tư chất
phụ nữ yếu đuối
Nhu tình: mối tình vấn
vương tha thiết.
Bài thơ này, ông Đào
Duy Anh cho rằng Nguyễn Du nhớ vua Lê Chiêu Thống; ông Trương
Chính, Lê Thước lúc đầu cho rằng nhớ người bạn cũ, sau
đó cho rằng nhớ vợ em Đoàn Nguyễn Tuấn. Các bản khác
đều cho như thế. Riêng tôi chứng minh bài này Nguyễn Du nhớ
Xuân Hương Hồ Phi Mai.
Hồ Xuân Hương đã nhận
được bài thơ này, nên trong bài: Cảm Cựu Kiêm trình Cần
Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, gửi Nguyễn Du năm 1813. Hồ Xuân
Hương đã nhắc lại bằng câu: Giấc mộng rồi ra nửa
khắc không. Xuân Hương đã hiểu Nguyễn Du khi viết: Mộng
đến đèn côi sáng, mộng tan gió lạnh lùng, Giai nhân nào
thấy nữa, Lòng ta rối tơ vương. Nguyễn Du đã xem cuộc
tình ba năm với Xuân Hương Hồ Phi Mai, như một giấc mộng.
Bài Tạp Thi I , Nguyễn Du cũng xem cuộc tình với cô Xuân Hương
làng Nghi Tàm, hay cô Cúc làng Trường Lưu đều là mộng ảo.
Xuân
lan, thu cúc, thành mộng ảo (Xuân lan thu cúc thành hư sự.)
Dù còn yêu Nguyễn Du, nhưng biết rằng tình yêu không lối
thoát, Nguyễn Du không có một hành động nào cậy mai mối
hay người thân đến cưới hỏi, ít ra Nguyễn Du cũng còn
mấy bà chị dâu, hay chị ruột ở Thăng Long ? : Ba đồng
một miếng trầu cay, sao anh không hỏi những ngày em còn không
?
Tin Nguyễn Du bị bắt
giam tại Hà Tĩnh ra đến Thăng Long. Bà Đồ Diễn thôi thúc
con gái lấy chồng. Phạm Đình Hổ trong bài Hoài cổ ( Nhớ
xưa), mượn ý thơ Thôi Hộ, đã trêu nàng: Năm xưa hoa đào
nở, Em tôi học cài trâm. Năm nay hoa đào nở, Mẹ gả xóm
Tây gần, Năm nay hoa đào nở, Gió xuân sao lạnh lùng. Em nhìn
hoa mà khóc, Sầu vương nét mi cong.(Khứ tuế đào hoa phát,
Lân nữ học sơ kê. Kim tuế đào hoa phát. Dĩ giá lân gia tây
; Kim tuế đào hoa phát, Xuân phong hà thê thê, Lân nữ đối
hoa khấp, Sầu thâm mi chuyển đê.. (Phạm Đình Hổ. Tuyển
tập thơ văn ; nxbKHXH 1998.) Hồ Xuân Hương không còn lối thoát
đành lên kiệu hoa về nhà chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi
Tàm.
Theo Gs Hoàng Xuân Hãn,
tương truyền người chồng thứ nhất Hồ Xuân Hương là một
thầy thuốc, con một thầy lang, chưa được bao lâu thì thầy
lang đi chữa bệnh chẳng may bị nhiễm bệnh mất. Xuân Hương
viết bài Bà Lang Khóc Chồng. Bản Quốc Âm Thi Tuyển chữ
nôm tựa Khóc Chồng Làm Thuốc.
BÀ LANG KHÓC CHỒNG
Văng vẳng tai nghe
tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên
khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ
mùi cam thảo,
Cay đắng chàng ơi
vị quế chi.
Thạch nhủ, trần
bì sao để lại,
Qui thân, liên nhục
tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết
trao ai nhỉ ?
Sinh ký chàng ơi,
tử tắc quy.
Chú thích :
Cam thảo : thân cây có
chất ngọt.
Quế chi : cành vỏ quế
có quế vị cay, có quế vị đắng.
Thạch nhủ : một loại
lá trà, cũng có nghĩa là vú trong hang động.
Trần bì : võ quýt phơi
khô, nghĩa bóng cái giống người nữ hay người nữ trần
truồng.
Qui thân : một loại
cần, nghĩa bóng là qui đầu, dương vật.
Liên nhục : hột sen
nghĩa bóng là thân thể.
Dao cầu : dao sắc thuốc
bắc.
Sinh ký tử qui : Sống
gửi thác về, lấy từ sách Hoài Nam Ký.
Bài thơ Xuân Hương không
yêu thầy lang nên đùa bởn, mượn tên các vị thuốc : Cam
thảo, quế chi, thạch nhủ, trần bì, qui thân, liên nhục.
Và Dao cầu để sắc thuốc bắc, từ nay thân phận thiếp
biết trao cho ai. Hồ Xuân Hương không cho mối tình này nằm
trong tình sử của mình nên cũng không chép trong Lưu Hương
Ký.
Paris
24-11-2013
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
*Tiến sĩ Khoa Học Giáo
Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne
Tác giả : Hồ Xuân Hương,
nàng là ai ? Nguyễn Du Mười năm gió bụi và mối tình Hồ
Xuân Hương. Truyện Thơ Odyssée (12110 câu lục bát). Sử Thi
Iliade (16933 câu lục bát). Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc
trước năm 1945. Giáo Dục Miền Nam Việt Nam 1954-1975. Thơ Tình
Nhất Uyên,( Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa). Tự điển Tình
yêu bằng thơ tình Xuân Diệu.(toàn bộ di cảo đã xuất bản
và chưa xuất bản do Xuân Diệu ký thác).. nxb Khuê Văn. Paris
ấn hành ; Cánh chim từ vùng lửa đỏ ; Thơ Nhất Uyên, nhạc
Tôn Thất Lập. HSVST Paris 1974. Bóng Thời Gian, Thời gian ta
mãi mãi còn xanh, thơ Nhất Uyên và Nguyễn Đăng Hưng.Bruxelles
nxb Thanh Long 1972. Chiêm Bao Trắng. Sàigon 1969... Email : phamtrongchanh@free.fr |