Trong
Lưu Hương Ký có một bài thơ chữ Hán tuyệt bút của Hồ
Xuân Hương , đó là bài thơ Dữ Sơn Nam Hạ Hiệp Trấn Quan
Trần Hầu. Bài hoạ nguyên vận Quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ
Trần Quang Tĩnh. Bài thơ dùng điễn tích lạ và tài tình,
chỉ dùng ít chữ mà tả được những tâm sự, tình ý uẩn
khúc của nàng, đúng như lời khen của Cư Đình: " Học rộng
mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà
đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thật là một bậc tài
nữ. "
Theo
Đại Nam Thực Lục kỷ 1 quyển 31 trang 3b.: Trần Quang Tĩnh
nguyên làm quan Hiệp Trấn, trấn Bình Định, tháng giêng năm
Đinh Hợi (1807), được bổ làm Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ vùng
Nam Định và Thái Bình ngày nay. Quang Tĩnh ở trấn được
hai năm bốn tháng. Tháng 4 năm Kỷ Tỵ (1809), ông cáo bệnh
và xin về nghỉ. Có thể rằng ông lên Thăng Long cáo từ quan
Tổng Trấn Bắc Thành và nhân đó đến từ biệt Xuân Hương.
Theo
Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược qu 2. Bộ Giáo Dục. Saigon
1971 tr 172. Đời Gia Long đến trước năm 1831 Đất Bắc Phần
gọi chung là Bắc Thành, đặt dưới sự cai trị Tổng Trấn
Bắc Thành, vị quan đầu tiên là Hữu Quân Nguyễn Văn Thành
(1802-1809). Sau đó ông về kinh đô Phú Xuân giữ chức Trung
Quân thống lĩnh toàn quân đội, làm Tổng Tài Sử Quán và
soạn luật Gia Long.
Nguyễn
Huỳnh Đức thay thế (1810-1816). Lê Chất làm Tổng Hiệp Trấn.
Từ năm 1818 đến 1826 Lê Chất làm Tổng Trấn, Phạm Văn Đăng
làm Tổng Hiệp Trấn.. Thời kỳ Lê Chất làm Tổng Trấn là
thời kỳ phe phái của Nguyễn Văn Thành bị vu tội và thanh
trừng. Tại Huế Nguyễn Văn Thuyên vì một bài thơ gửi bạn
có câu " Giúp nhau thay đổi hội cơ này. " bị án chém, cha
là Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử. Tại
Bắc Thành những người được xem là vây cánh Nguyễn Văn
Thành cũng bị triệt hạ: Binh Bộ Thượng Thư (Bộ Trưởng)
Đặng Trần Thường bị khui tội làm sắc phong thần cho tướng
nhà Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc (người chỉ huy đánh dẹp các Chúa
Nguyễn) và tội ẩn lậu ao đầm, ruộng, ông bị giam và xử
tội giảo (thắt cổ), Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc
Quán chết bất ngờ năm 1818 có lẽ tự tử. Và Trần
Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương, Tham Hiệp trấn Yên Quảng,
bị Án Thủ Dung xui dân tố cáo tham nhũng 700 quan tiền, bị
tử hình..
Bắc
Thành chia làm 11 trấn: gồm năm nội trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây,
Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, sáu ngoại trấn:
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Yên
Quảng ngoài ra dó đạo Thanh Bình (Ninh Bình) và Hoà Bình còn
gọi là Thanh Hoa ngoại trấn và Phủ Hoài Đức gồm Thăng
Long và vùng phụ cận.
Gia
Định Thành chia làm 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh,
Vĩnh Tường và Hà Tiên. Tổng Trấn Gia Định Thành là Tả
quân Lê Văn Duyệt. Sau khi Lê Văn Duyệt mất, con nuôi Lê Văn
Khôi khởi loạn. Vụ khởi loạn bị triệt hạ toàn bộ tay
chân Lê Văn Khôi đều bị giết, mộ Lê Văn Duyệt bị san
bằng mang xích sắt.. Các chức Tổng Trấn bị Vua Minh Mạng
bãi bỏ.
Đất
kinh kỳ có 7 trấn và 4 doanh: 7 trấn là Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa (Khánh Hòa) và
Bình Thuận. 4 doanh là Quảng Đức (Thừa Thiên) Quảng Trị,
Quảng Nam, Quảng Bình. Cầm đầu các doanh có quan Cai Bạ và
quan Ký lục. Nguyễn Du giữ chức Quan Cai Bạ Doanh Quảng Bình
từ năm 1809 đến 1813. (Các sách và bài viết ngày nay thường
lầm lẫn Nguyễn Du làm Cai Bạ là một chức quan coi sổ ruộng
đất, bị các quan trên chèn ép. Thật ra Cai Bạ là chức
quan tương đương với Hiệp Trấn, đứng đầu một doanh,
không dưới quyền một ai trong doanh.)
Cầm
đầu một trấn về an ninh có viên quan Trấn Thủ, một quan
võ cao cấp. Ở một trấn nhỏ như Yên Quảng không có quan
Hiệp Trấn mà đứng đầu là quan Tham Hiệp, và về an ninh
có quan Án Thủ.
Từ
năm 1831 Vua Minh Mạng cải cách hành chánh, đặt ra tỉnh thay
trấn, nhiều trấn được chia làm hai tỉnh, như Sơn Nam Thượng
được chia làm hai tỉnh: Hà Nội và Hưng Yên. Sơn Nam Hạ
được chia làm Nam Định và Thái Bình. Tỉnh lớn có quan Tổng
Đốc, tỉnh nhỏ có quan Tuần Vũ bên cạnh có quan Bố Chánh
lo về hành chánh, Án Sát lo về hình pháp và Đốc Học lo
về giáo dục. Trước năm 1831 Quan Hiệp Trấn lo hết mọi
việc, có quan Tham Hiệp phụ tá đứng trên hàng Tri Phủ, Tri
Huyện, vùng dân tộc thiểu số miền núi gọi là Tri Châu.
Theo
GS Hoàng Xuân Hãn trong Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long. Tạp
Chí Khoa Học Xã Hội số 11-12 tháng 12 năm 1983 Paris. Tr 94.:
Cơ quan trung ương cai trị toàn bộ Bắc Thành cầm đầu bởi
Quan Tổng Trấn và Quan Tổng Hiệp Trấn còn gọi là Phó Tổng
Trấn là một vị Đại Tướng trong Ngũ Quân: (Trung, Tiền,
Hậu, Tả, Hữu). Tổng Hiệp Trấn là quan văn vào hàng Thượng
Thư. Được tán trợ bởi ba tào: Tào Hình lo về hình sự,
Tào Binh lo bề binh bị, Tào Hộ lo về tài chánh, thuế má..
Ba người giữ chức tam Tào đầu tiên là Nguyễn Văn Khiêm,
Đặng Trần Thường và Phạm Văn Đăng..Năm 1817 Trần Quang
Tĩnh được cử ra làm Quan Tào Binh Bắc Thành.
Trần
Quang Tĩnh, vốn quê ở Gia Định, nguyên là quan Hiệp Trấn
Bình Định được đổi ra làm quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ
đổi ra Bắc Hà lần đầu. Được nghe tiếng Xuân Hương đã
tới thăm và tỏ tinh qua lại nhiều lần, nhưng vì một lý
do nào đó không cưới nàng ? Xuân Hương có thể từng mang
sách đến bán cho các quan, các phú hộ tại Trấn lỵ Nam Định.
Tháng 3 năm Kỷ Tỹ 1809, nhân dịp lên Thăng Long cáo từ quan
Tổng Trấn đã ghé thăm Cổ Nguyệt Đường. Hồ Xuân Hương
bày tiệc dưới trăng tiễn đưa. Trần Quang Tĩnh xướng
bài thơ:
Trần
Hiệp Trấn gửi Hồ Xuân Hương
Nâng
chén dưới đèn tiệc tiễn chân,
Tơ
sầu dằng dặc lặng câm buồn.
Cây
lặng gió yên, chim vắng tiếng,
Ngoài
rèm trăng xế, khách kêu ồn.
Ta
thẹn không tài thơ Bạch Tuyết,
Khen
bạn duyên cao sinh Chu môn.
Trùng
phùng còn còn biết ngày nao gặp,
Ngơ
ngẩn tình say vướng mộng hồn.
Thơ
chữ Hán Trần Quang Tĩnh,
Hồ
Xuân Hương chép trong Lưu Hương Ký,
Nhất
Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
Trần
Hiệp Trấn xướng gửi Hồ Xuân Hương
Tống
biệt đăng tiền bả tửu tôn,
Sầu
ti lũ lũ dục vô ngôn,
Thụ
biên phong tế điểu thanh cấp,
Liêm
ngoại nguyệt tà nhân ngữ huyên.
Lân
ngã bất tài hư Bạch Tuyết,
Hân
quân hữu ohận thách Chu Môn.
Trùng
phùng thử hậu tri hà nhật,
Thác
đác tình si nhạ mộng hồn.
Điển
tích:
Khách:
chim khách, kêu khách khách báo hiệu có khách đến.
Bạch
Tuyết và Dương Xuân: là hai khúc hát do Sư Khoáng đời Xuân
Thu Chiến Quốc sáng tác. Tống Ngọc viết: khi hai khúc hát
này hát ra cả nước chỉ năm ba người họa theo được, ý
nói khúc hát hay nhưng khó hát, khó làm. Ý nói Xuân Hương
làm thơ khó ai hoạ theo được.
Chu
Môn là cửa son, gia đình danh vọng, dòng họ Hồ có nhiều
người đỗ đạt danh vọng đầu triều như Hồ Tông
Thốc, Hồ Sĩ Đống, Hồ Phi Tích...
Cố
nhân từ biệt nhau, bạn tiễn chén rượu này đến chén khác,
lòng bâng khuâng, tơ sầu dằng dặc không nói được.Gió im,
cây chẳng lay động, chim đã ngủ im tiếng. Bên ngoài rèm
trăng xế chỉ còn nghe có tiếng chim khách kêu. Quang Tĩnh khách
sáo cho rằng mình tài mọn, nên không nhiều thi tứ, không
làm được khúc hát Bạch Tuyết. Khen Hồ Xuân Hương duyên
cao nàng dòng dõi nhà quan Hồ Sĩ Đống. Không biết lúc nào
còn gặp lại nàng nữa. Tình đã nặng, đêm mộng chắc khó
nguôi được. Bài thơ bốn vế đầu Quang Tĩnh cảm động
trước sự đưa tiễn của Xuân Hương, nhưng bốn vế sau,
tình không đậm nữa chỉ nhạt dần.
Xuân
Hương đã họa ngay trên bàn tiệc bài thơ của Hiệp Trấn
Trần Quang Tĩnh:
Họa
nguyên vận quan Hiệp Trấn
Sơn
Nam Hạ Trần Hầu
Gặp
gỡ bèo mây dưới nguyệt tròn,
Ngỗn
ngang sầu vọng nói gì hơn.
Phượng
Cầu ai gảy đàn đưa ý,
Chim
Khách kêu chi ngõ vắng buồn.
Ai
chuộc tiếng kèn về Hán khuyết,
Lòng
ta luống thẹn biệt Hồ môn.
Chia
tay giữa tiệc tình lưu luyến,
Ngây
ngát hồn tan mộng Sảnh Nương.
Thơ
chữ Hán Hồ Xuân Hương
Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt
Dữ
Sơn Nam Hạ
Hiệp
Trấn Trần Hầu
Bình
thủy tương phùng nguyệt hạ tôn,
Cương
trường phiến phiến thuộc nan ngôn.
Khiêu
cầu hữu ý minh hoàng xướng,
Nhiễu
thụ vô đoan ngữ thước huyên.
Thùy
tục già thanh qui Hán khuyết,
Tự
tu liên bộ xuất Hồ môn.
Bán
diên biệt hậu tình đa thiếu,
Mạch
mạch không ly Sảnh Nữ hồn.
Điển
tích:
Bình
thủy: Bèo trên nước, khi hợp khi tan?
Khiêu
cầu: Tích Tư Mã Tương Như gảy khúc Phượng cầu kỳ hoàng,
(Chim phượng trống tìm con mái) để quyến rũ Trác Văn Quân,
một gái góa chồng.
Ngữ
thước: chim khách kêu ngoài ngõ báo tin khách tới.
Hán
khuyết: Điển tích nàng Thái Diệm con gái nước Hán có tài
thổi kèn,bị phiêu bạt vào đất Hung Nô miền Tân Cương
bây giờ, phải lấy trai Hồ. Tào Tháo mến tiếng kèn nàng
bèn chuộc về đất Hán.
Hồ
Môn: cửa ải đi từ đất Hung Nô về. Hồ Xuân Hương chơi
chữ có nghĩa là dòng dõi họ Hồ, danh gia vọng tộc.
Sảnh
Nương, chuyện Liêu Trai Chí Dị: Nàng họ Sảnh và Vương
Trụ yêu nhau, nhưng cha mẹ nàng không bằng lòng, nàng lâm
bệnh bất tỉnh. Vương Trụ buồn bỏ làng đi xa làm ăn, một
hôm Vương Trụ dừng thuyền, chợt thấy Sảnh Nương khăn
gói bước xuống. Hai người lấy nhau và đêm đi xa làm ăn.
Năm năm sau vợ chồng về làng. Vương Trụ tới nhà trước
xin lỗi cha mẹ nàng đã làm trái ý ông bà. Cha mẹ nàng sửng
sốt vì Sảnh Nương ốm nặng bất tỉnh nằm trong buồng suốt
5 năm qua. Khi vợ chàng vào đến sân, Sảnh Nương lìa buồng
chạy ra đón. Hai Sảnh Nương ôm lấy nhau nhập làm một, thì
ra hồn Sảnh Nương đã lìa xác theo Vương Trụ đã năm năm.
Ông
Bùi Hạnh Cẩn trong Hồ Xuân Hương. Thơ chữ Hán, chữ Nôm
và giao thoại, nxb VHTT Hà nội 1995 tr 108 dịch là Thiển Nữ.
Tôi
chép sau đây các bài dịch của Học giả Trần Thanh Mại và
Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn
Bản
dịch Học giả Trần Thanh Mại
Gặp
gỡ dưới trăng chuốt chén mời,
Lòng
son đòi đoạn chẳng nên lời.
Khúc
đàn ai gảy đà đưa ý,
Ngoài
ngõ khách kêu chẳng thấy người.
Ai
chuộc tiếng kèn về Hán đó ?
Tủi
lê gót ngọc đất Hồ rối !
Biệt
ly dỡ tiệc tình lưu luyến.,
Hồn
Sảnh sầu đau mạch mạch khơi.
GS
Hoàng Xuân Hãn dịch ra thơ lục bát:
Nước
bèo nâng chén dưới trăng,
Ngổn
ngang lòng thắm nói năng được nào !
Đàn
xưa gảy khúc Phượng Cầu,
Trên
cây khách gọi nhưng sầu không ai!
Ai
mê kèn Hán chuộc người ?
Ta
đây luống thẹn đã rời Hồ Môn.
Chia
tay giữa tiệc tình còn,
Nghẹn
ngào ngây ngất tan hồn Sảnh Nương.
Từng
quen nhau, nay gặp lại như bèo trên nước tan rồi hợp, giây
phút tao ngộ cùng nâng chén rượu dưới trăng tròn mời nhau,
lòng ngỗn ngang không nói được nên lời. Xuân Hương trách
Quang Tĩnh xưa đã ngỏ ý quyến dụ xin cưới nàng như Tư
Mã Tương Như gảy khúc Phượng cầu kỳ hoàng. Nàng đợi
chàng tới như chàng đã hứa hẹn, như lời chim khách báo
tin trước ngõ, nhưng chàng không tới. Chàng đã yêu thơ thiếp
như yêu tiếng kèn nàng Thái Diệm sao không như Tào Tháo chuộc
nàng về đất Hán, sao chàng không cưới thiếp. Lòng thiếp
tự thẹn đã vượt ra ngoài khuôn mẫu vọng tộc họ Hồ.
Hán khuyết đối với Hồ Môn thật khéo léo tài tình. Chia
tay nhau hôm nay, lòng còn lưu luyến. Hồn ngây ngất muốn thoát
xác như nàng Sảnh Nương, để đi theo cùng chàng. Bài thơ
cực mạnh với điển tích Sảnh Nương, nói lên tấm lòng
nàng. Thật là một bài thơ chữ Hán tuyệt bút, của Hồ Xuân
Hương, chỉ tám câu thôi mà dùng bao điển tích thật khéo
léo kết hợp nhau tài tình. Hồ Xuân Hương không chỉ là bà
Chúa Thơ Nôm mà thơ chữ Hán cũng vào bậc thi hào.
Bài
thơ này còn được chép trong Tục Hoàng Việt thi tuyển của
Nguyễn Đình Hồ, một nho gia người huyện Nam Trực tỉnh
Nam Định, sách cốt nối tiếp Hoàng Việt thi tuyển của Bùi
Huy Bích. Cuối năm 1960, ông Nguyễn Đình Hồ gửi tác phẩm
mình cho Viện Văn Học, nhưng không dẫn bài thơ lấy từ đâu.
Ông Trần Thanh Mại cố tìm hỏi thẳng nhưng tác giả đã
mất.
Mối
tình Hồ Xuân Hương và Trần Quang Tĩnh chỉ còn để lại
hai bài thơ. Sau đó rồi mỗi người mỗi ngã, cuộc đời
phủ phàng. Khi Trần Quang Tĩnh được thăng chức Tào Binh,
Thống lĩnh toàn quân đội Bắc Thành dưới quyền Tổng Trấn
Lê Chất, trong khi Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương bị
bắt, vị vu cáo, Hồ Xuân Hương có đến tìm Quang Tĩnh để
nhờ cứu giúp. Quang Tĩnh chẳng làm được gì nên chẳng dám
chường mặt gặp người tình cũ, chỉ sai lính đuổi nàng
đi, để Hồ Xuân Hương chua chát:
Ngâm
khách thế thần đâu sắc tướng,
Tình
ma không sức đuổi sầu binh.
Và
trái tim Trần Quang Tĩnh có lẽ đã hóa đá, trên khán đài
ra lệnh cho đao phủ thủ chém Trần Phúc Hiển và khi nghe tiếng
nàng Hồ Xuân Hương ôm thây chồng khóc cười điên dại:
Hạt
sương dưới chiếu chau mày khóc,
Giọt
máu trên tay mỉm miệng cười.
Hai
câu thơ này trong văn bản cổ nhất của bài Khóc ông Phủ
Vĩnh Tường, bài thơ này bị sửa đổi nhiều thời Pháp thuộc.
Câu: " Cán cân tạo hóa rơi đâu mất, " cán cân là hình ảnh
nữ thần Công Lý cầm cán cân tiểu ly, đắp nổi trên các
toà án thời Pháp thuộc. Thời Hồ Xuân Hương dùng chữ :
đồng cân : cân có cán dài, có dĩa cân, để hàng hóa, khi
cân nhấc đồng cân trên vạch, Âm công nhắc một đồng cân
cũng vừa (Kiều). Mượn tay thi tướng nhắc đồng cân (Thơ
Hồ Xuân Hương tặng Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc
Quán).. |