1.
Tốn Phong họ Phan, cùng họ với nữ sĩ Phan My Anh. Giáo Sư
Hoàng Xuân Hãn, đoán tên là Huân, nghĩa là Nam Phong, Gió
Nam, hay Tốn Phong nhưng chữ phong trong bài tựa Lưu Hương Ký
lại có nghĩa là núi. Tốn Phong tên thật là Phan Nam Sơn chăng
?. Tiếc là chưa tìm được gia phả để truy nguyên Tốn Phong
là Phan Huy Huân hay Phan Nam Sơn. Trong bài tựa cho Lưu Hương
Ký, Tốn Phong còn xưng danh hiệu Nham Giác Phu, nghĩa là Người
ẩn trong núi mà hiểu sự đời. Bài thơ số 10 trong 31 bài
thơ tặng Hồ Xuân Hương, Tốn Phong cho địa chỉ:
Trường
đình từ biệt nàng còn nhớ,
Ghi
lấy, Hoan Nam, Thạch Ẩn nhi.
Tốn
Phong quê ở Hoan Nam (Nghệ Tĩnh), nhà ở gần núi Huyện Thạch
Hà, nơi chánh quán dòng họ Phan Huy Ích.
Sau
khi Vua Gia Long lên ngôi, triều đình Huế mở khoa thi đầu
tiên năm 1807 và sáu năm sau mới mở khoa thi thứ hai năm 1813.
Tốn Phong đi thi trường Nghệ và cả hai khoa đều hỏng. Tốn
Phong không lưu lại tên trong các kỳ thi Hương, nhưng để
lại trên đời bài tựa Lưu Hương Ký, và 31 bài thơ chữ
Hán riêng tặng Hồ Xuân Hương. Năm 1963 ông Trần Thanh Mại
phát hiện tại Thư Viện Khoa Học Trung Ương Hà Nội đóng
lẫn với bài Du Hương Tích động ký của Chu Mạnh Trinh.
Ông Trần Thanh Mại đã dịch và xét cẩn thận bài tựa và
công bố trên Tạp Chí Văn Học.*
2.
Bài
tựa tập thơ Lưu Hương Ký
" Làm
thơ có phải dễ đâu ! Vì trong lúc ngâm vịnh có thể xuất
phát từ mối tình (cảm hứng), nhưng phải biết dừng lại
trong phạm vi lễ nghĩa. Cho nên thơ có thể làm cho trời đất
chuyển động, quỷ thần cảm xúc, giáo hóa tốt lành, nhân
luân đầy đủ. Vì vậy mà Khổng Tử khen thơ Quan Thư (Kinh
Thi), đã có câu: 'Vui mà không đến nỗi buông tuồng, buồn
mà không đến nỗi đau thương' chính là như thế. Sau thơ
Quan Thư, không nghe có thơ nào được như thế nữa.
Đời
xưa Ban Thái Cơ tiếp tục công việc của anh, là Ban Cố đã
chép nối Hán Sử. Tô Tiểu Muội (em Tô Thức đời Tống)
cùng với cha và anh đã trở thành nhà đại gia; hai nàng đáng
gọi la tay nữ sử vậy.
Nước
ta có tiếng là đất văn hiến, nhưng phụ nữ nhiều người
không được học. Khoảng giữa đời Lê có bà Hồng Hà nữ
tử (Đoàn Thị Điểm) chép sách Truyền Kỳ (Tục Truyền Kỳ
Tân Phả), nhưng lời văn đều thiên về gịọng trào phúng
đùa bỡn. Duy có bà Phan My Anh, người trong họ tôi, có tiếng
giỏi thơ văn, các bậc tiền bối đều khen ngợi, My Anh không
thích ghi chép lại thơ văn của mình. Tôi thường được các
tài tử văn nhân, đọc lại cho nghe thơ của bà, thì thấy
đều là xuất phát từ mối tình mà đều dừng lại trong
lễ nghĩa. Tuy vậy tôi không thấy được toàn tập thơ văn
bà, thường rất lấy làm ân hận !
Mùa
xuân năm Đinh Mão (1807), tôi đến thành Thăng Long, nhân cùng
bạn là Cư Đình nói chuyện về các tài nữ xưa nay, bạn
ấy nói cho biết cùng quận với tôi, có người phụ nữ là
Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương, học rộng mà thuần thục,
dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ
đúng phép tắc mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ.
Tôi
liền tới nơi hỏi thăm. Khi hỏi đến tên họ, mới biết
cô ta là em gái ông lớn họ Hồ, đậu Hoàng Giáp, người
làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu. Chúng tôi mới tình cờ gặp
nhau lần đầu mà đã thành ra đôi bạn thân thiết. Trong những
khi uống rượu ngâm thơ, kẻ xướng người họa, tứ thơ
dồi dào, nhưng vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng, buồn
mà không đau thương, khốn mà không lo phiền, cùng mà không
bức bách. Thật là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra, cho nên
khi hát lên, ngâm lên những thơ ấy, thì tay muốn múa, chân
cứ muốn giậm mà không tự biết.
Từ
dó, có những lúc tôi phải bôn ba vào Nam ra Bắc, không thể
cùng nhau sớm hôm xướng họa. Còn Xuân Hương cũng vì mẹ
già nhà túng, mà ăn ở cũng không được yên ổn.
Sang
mùa xuân năm Giáp Tuất (1814), tôi tìm đến chổ ở cũ
của cô, hai bên vừa mừng vừa tủi. Xuân Hương liền cầm
tập Lưu Hương Ký, đưa cho tôi xem mà bảo tôi rằng:
'Đây là tất cả thơ văn trong đời tôi từ trước đến
nay, nhờ anh làm cho bài tựa.'. Tôi mở tập ấy ra xem thì
thấy những bài thơ năm chữ, bảy chữ, những điệu ca phú
và từ chép đầy trong một quyển. Thoạt đầu tôi hết sức
kinh ngạc lạ lùng. Hồi dần dần càng đọc, càng thầy lòng
thư thái mà trở nên vui thích khoái trá.
Tôi
thường nghe: người đất Nghệ An thuần tú và ham học. Đúng
như thế thật.! Đàn ông tuấn kiệt thì có các bậc khoa bảng
đời trước, đàn bà tinh anh thì có những người như Phan
My Anh và Hồ Xuân Hương. Người ta nói núi cao sông sâu sinh
ra nhân tài tuấn kiệt, quả không sai vậy.
Bởi
vậy tập Lưu Hương Ký tuy đầy vẻ gió trăng mây móc, nhưng
đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói,
lại cũng đều đúng với cái ý đã nói trên là: xuất phát
từ mối tình mà biết dừng lại trên lễ nghĩa.
Bởi
thế tôi xin nêu rõ ra đây để ngày sau có dịp chọn lựa
thơ ấy làm thơ dân phong chăng .
Nay
đề tựa.
Thăng
Long, năm Giáp Tuất (1814) tháng Trọng Xuân (tháng hai)
Người
đồng quận là Nham Giác Phu
Tốn
Phong Thị viết ở nơi ngồi dạy học. . "
Theo
bài tựa và các bài thơ, Tốn Phong sau khi hỏng thi kỳ thi
Hương Trường Nghệ năm 1807 và 1814, ra Thăng Long dạy học
tại gần Hồ Kim Âu, trước Văn Miếu Quốc Tử Giám. Trong
Dụ Am Ngâm Lục, Phan Huy Ích cũng có nói ông mở nhà Học
nơi đây, phải chăng Tốn Phong đã dạy thuê nơi người anh
cùng họ.(Phan Huy Ích là bậc tiến sĩ dạy các lớp các thí
sinh sắp đi thi và Tốn Phong dạy lớp nhỏ và vỡ lòng)
Tốn Phong đến chơi cùng Cư Đình bàn chuyện văn thơ xưa
nay, nói đến thơ ngày nay Cư Đình có giới thiệu đến Hồ
Xuân Hương. Người cùng quê Hoan Châu, Tốn Phong hỏi thăm
địa chỉ và đến thăm hiệu sách của nàng ở Phố Nam thành
Thăng Long gần đền Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không. Trong thơ
văn Cao Bá Quát 20 năm sau có nhiều bài thơ nhắc đến Cư
Đình. Cư Đình có nghĩa là người ở nơi đình làng, có lẽ
ông đang cư ngụ làm ông từ lo hương khói, hay coi thẻ xin
xăm, coi bói phong thủy nơi một đình nào đó tại Thăng Long
nên lấy Cư Đình làm bút hiệu.
Tốn
Phong được biết Hồ Xuân Hương là em ông Hoàng Giáp Hồ
Sĩ Đống đậu đầu Song Nguyên hai kỳ thi Hội và Thi Đình,
làm Thượng Thư triều Lê-Trịnh. Ông Đào Thái Tôn dựa vào
từ em mà đoán rằng Hồ Xuân Hương cùng cha khác mẹ với
Hồ Sĩ Đống., con Hồ Sĩ Danh. Trong khi theo gia phả thì nếu
Hồ Xuân Hương con Hồ Phi Diễn thì cùng ông tổ cách bốn
đời là Hồ Sĩ Anh. Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, ngày xưa cách nhau
3, 4 đời là gần, từ em họ cũng thường chỉ nói em, nhất
là khi anh chị là bậc sang.(khác với ngày nay họ hàng chỉ
biết nhau 2, 3 đời).
Năm
1807, Tốn Phong đến thăm Hồ Xuân Hương nơi hiệu sách ở
Phố Nam, sau đó nàng 'mẹ già nhà túng nên ăn ở không yên
ổn'. Hiệu sách không có lời nàng phải đi buôn, đem sách
vở, tơ lụa, lĩnh, bán tại các hội làng, các trấn. Năm
1814, Tốn Phong đến thăm Xuân Hương tại Cổ Nguyệt Đường,
làng Nghi Tàm và viết tựa Lưu Hương Ký, mẹ Xuân Hương còn
đó, lúc này Xuân Hương thôi đi buôn và dạy học lớp học
do Tử Minh mất năm 1811 để lại và sau đó mẹ mất nên Xuân
Hương phải cư tang mẹ một năm, nên đến đầu năm 1816 mới
về về Vịnh Hạ Long cùng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển.
3.Hồ
Xuân Hương tả buổi đầu gặp gỡ Tốn Phong qua bài Ngụ
ý Tốn Phong thị:
Gặp
anh chàng dáng đi lật dật, ăn diện bảnh bao, chàng đến
sớm sương còn ướt áo tơ xanh lục, chàng xức dầu thơm
'made in annam' mùi trầm, mùi xạ hương, hay mùi củ xã.?. chàng
xưng là đồng hương đến tán mình, Xuân Hương có cảm tình,
nhưng nhìn đùa với nửa con mắt, không biết là duyên hay
nợ. Nếu nàng mềm lòng hay bị tiếng sét ái tình chắc không
hỏi thế. . Chàng bước đi thơn thớt như gió lọt cành lê,
gió lướt mặt hồ. Anh chàng muốn cầu duyên, chắp chỉ đào
thêu trướng gấm nên làm thơ tặng nàng như chuyện chàng
Vu Hựu thả lá đề thơ với nàng cung nữ Hàn Thúy Tần. Thăng
Long có sông Tô Lịch chảy qua cống thành vào hào thành và
chảy ra sông Hồng thật hợp tình hợp cảnh. Tốn Phong ăn
nói lưu loát điệu đàng quá, khiến nàng đâm ra nghi ngờ
nghĩ rằng phải tinh con mắt mới biết ngọc hay đá.
Ngụ
ý Tốn Phong thị
Bài
I
Chồn
bước may đâu khéo hẹn hò,
Duyên
chi hay bởi nợ chi ru ?
Sương
xoa áo lục nhồi hơi xạ,
Gió
lọt cành lê lướt mặt hồ.
Muốn
chấp chỉ đào thêu trướng gấm,
Mà
đem là thắm thả dòng Tô.
Trong
trần mấy kẻ tinh con mắt,
Biết
ngọc mà trao mới kể cho.
4.
Từ đó Tốn Phong thường lui tới hiệu sách nàng, như gió
đông thổi trên đường hoa, nghĩ ra chàng cũng có công đi
tìm thơm. Từ kẻ lạ mặt, không ai giới thiệu mà đến làm
quen không ngượng ngùng chi cả. Vì nặng lòng thăm nàng, nên
nhẹ đến chuyện công danh thi cử gánh vác chuyện non sông.
Khi thì cùng nàng trong vườn nắng nhuộm màu xanh biếc, khi
thì trong phòng khách trăng soi trải hồng ấm cúng. Nàng tự
hỏi ai nhớ lấy cho lòng mình và tự hỏi trăm năm có duyên
nợ gì với Tốn Phong không ? Bài thơ xem chừng Hồ Xuân Hương
đã cảm động cái công đeo đuổi của Tốn Phong, nhưng Tốn
Phong chưa thi đỗ, chưa có công danh gì, còn phải đi dạy
học nơi này nơi khác kiếm ăn, chưa chắc Xuân Hương đã
nhận lời.
Bài
II.
Đường
hoa dìu dặt bước Đông phong,
Nghĩ
kẻ tìm thơm cũng có công.
Lạ
mặt dám quen cùng gió nước,
Nặng
lòng nên nhẹ đến non sông.
Da
trời nắng nhuộm màu xanh biếc,
Phòng
gấm trăng in giải thức hồng.
Ai
nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
Trước
trăm năm hẳn nợ chi không ?
Điển
tích:
Đông
Phong: gió Đông, chúa mùa Đông, thơ Thôi Hộ " Hoa đào năm
ngoái còn cười gió đông "
5.
Một đêm, Tốn Phong nằm mơ, thấy mình là Ngưu Lang và Xuân
Hương là Chức Nữ và sông Tô Lịch là giải Ngân Hà chia
cắt. Tốn Phong viết:
Sông
Tô tuy hẹp ấy Ngân Hà,
Mộng
thấy qua cầu giấc tối qua.
Tốn
Phong ý muốn cưới nàng để đôi bên không còn là Ngưu Lang
Chức Nữ nữa. Xuân Hương từ chối khéo léo qua bài: Tốn
Phong đắc mộng chi dữ ngã khan nhân thuật ngâm tịnh ký.
Tốn Phong ngủ thấy mộng, ghi lại đưa ta xem, ta ngâm thuật
chuyện và chép lại.
Bài
thơ Xuân Hương viết:
Tâm
sự em đây nói ra chàng có hiểu chăng ? Chúng ta đồng tâm
sự hợp nhau lắm, nhưng bạn với nhau thế này là đủ, cưới
nhau vì nhục dục có vui đâu, chàng còn phải lo học hành
thi cử để lập công danh trả nợ với non sông. Tình ái nống
nàn kéo dài lâu sẽ nhạt. Lời thề dù nặng, biết đâu rồi
sẽ nhạt phai, còn em xin chịu duyên phận hẩm hiu số kiếp
đã định, sau này có nhớ nhau đành nghĩ đến chuyện Xương
giang: " Xương giang một giải nông sờ, bên trông đầu nọ
bên chờ cuối kia. "
Tốn
Phong ngủ thấy mộng
ghi
lại đưa ta xem
ta
ngâm thuật chuyện và chép lại
Nhớ
ai mà biết nói cùng ai,
Rằng
chữ đồng ta quyết một hai.
Hoa
liễu vui đâu mình dễ khéo,
Non
sông đành giả nợ còn dài.
Chén
tình dầu nhẫn lâu mà nhạt !
Giải
ước nguyền âu thắm chẳng phai ?
Đày
đoạ duyên trần thôi đã định,
Xương
giang đành để ngắm tương lai.
6
Tốn Phong chắc buồn lắm, nhưng nghĩ cho cùng, công danh sự
nghiệp chưa có, thi cử chưa đỗ đạt, chỉ là anh đồ nghèo,
lấy gì bảo đảm tương lai cho nàng ? Rồi chẳng bao lâu Tốn
Phong lên đường trở về Hoan Châu chuẩn bị khoa thi tới.
Xuân Hương tặng Tốn Phong bài thơ tiễn biệt viết theo thể
sở từ:
Xuân
Hương cám ơn chàng bấy lâu nay đã đến chơi, xa nhau nhớ
viết thư cho nhau, tình bạn nồng nàn tôi xin giữ mãi, lòng
đâu dám như cuộc đời khi mưa khi gió mà đổi thay như trở
bàn tay, như sự đời chìm nổi trên sóng nước khi nói thế
này khi nói thế khác, chàng đi xa về Nam, Hoan Châu cách đất
Bắc Hà bao nhiêu dậm, lời hẹn biển thề non (thệ hải minh
sơn) ước được mãi mãi ngàn năm. Ai có thể vẽ được
nên tranh tấm lòng ngay thẳng của tôi : Nếu ông tơ bà nguyệt
se được ba mối tơ: chàng, vợ chàng và tôi vào một ? Chàng
là khách đa tình có hay chăng năm canh hồn tôi như con bướm
mộng đập cánh bay hơ hãi.
Tặng
Tốn Phong
Bướm
ong mừng đã mấy phen nay,
Hồng
nhạn xin đưa ba chữ lại.
Dám
đâu mưa gió trở bàn tay,
Những
sự ba đào xeo tấc lưỡi.
Nam
Bắc xa xa mấy dậm đây,
Hải
sơn ước để ngàn năm mãi.
Bức
tranh khôn vẽ tấm lòng ngay,
Tơ
nguyệt rày xe ba mối lại.
Hỏi
khách đa tình nhẽ có hay,
Năm
canh hồn bướm thêm bơ bải.
Hải
sơn: thệ hải minh sơn, thề non hẹn biển.
Bơ
bải: tiếng Việt xưa, có nghĩa hơ hải, hay bơ vơ bừa bãi,
bơ vơ tan tác.
Ông
tơ bà nguyệt không xe được ba mối tơ. Xuân Hương mẹ già
nhà túng đi buôn bán khắp nơi.
Tốn
Phong cũng thế khi phải bôn ba vào Nam ra Bắc tìm chổ dạy
học kiếm ăn. Cuoậc tình đành dang dỡ
7 Sang mùa xuân năm Giáp Tuất (1814). Tốn Phong tìm đến
Cổ Nguyệt Đường, hai bên gặp nhau mừng mừng tủi tủi.
Xuân Hương đưa tập Lưu Hương Ký cho Tốn Phong viết tựa.
Và Tốn Phong năm 1807 đã viết 11 bài thơ Đường tặng Xuân
Hương nay viết tiếp 20 bài khác thành một tập thơ riêng
tặng Hồ Xuân Hương. Tổng cộng 31 bài. Tôi sẽ dịch và
chú thích trong bài tới.
Tám
năm qua nàng lận đận đi buôn mưu sinh, nay Tử Minh mất để
lại lại lớp học, Cổ Nguyệt Đường lại khai giảng, đời
sống nàng đã ổn định. Bây giờ nàng đã được Tham Hiệp
Trấn Yên Quảng hứa cưới nàng đưa về Vịnh Hạ Long. Nàng
hy vọng kiếp này là lần cuối trong cuộc tình duyên trăm
năm của nàng. Nghĩ lại càng đau cho phận bạc, nói lên cho
vơi đi tấm thân bèo dạt. Những lời thề ngày xưa vẫn
còn dính, mái tóc mây đã cắt vẫn đeo bên lòng. Bây giờ
tìm được người xứng đáng tài tình là Tham Hiệp Yên Quảng,
dù là nơi nghìn non muôn nước cũng thề theo chàng.
Tốn
Phong bây giờ si tình đã bớt, nên an ủi nàng, viết tập
thơ tặng nàng và Xuân Hương đã hoạ bài thơ Tốn Phong
Họa
Tốn Phong nguyên vận
Kiếp
này chẳng gặp nữa thì liều,
Những
chắc trăm năm há bấy nhiêu,
Nghĩ
lại luống đau cho phận bạc,
Nói
ra thêm nhẹ với thân bèo.
Chén
thề thuở nọ tay còn dính,
Món
tóc thời xưa vẫn cánh đeo,
Được
lứa tài tình cho xứng đáng,
Nghìn
non muôn nước cũng tìm theo.
___________
*Trần
Thanh Mại. Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ
chữ Hán. ?. Tạp chí Văn Học số 3-1963 tr 33, 64
Trần
Thanh Mại. Trở về vấn đề Hồ xuân Hương TCVH số 10-1964
tr 58- 64
Trần
Thanh Mại Lưu Huơng Ký và lai lịch phát hiện nó. TCVH
số 11- 1964 tr 73,78.
.*Sách
Hồng Hà Phu Nhân di văn, mới phát hiện có 28 bài thơ trào
phúng của Đoàn Thị Điểm, nhưng sách Tục Truyền Kỳ Tân
Phả: có các truyện Hải Khẩu Linh từ, Vân Cát Thần Nữ,
An Ấp Liệt Nữ, Bích Câu Kỳ Ngộ, Bách Tùng thuyết thoại...là
sách soạn tiếp nối, sách Truyền Kỳ của Nguyễn Dữ
*Đào
Thái Tôn. Thơ Hồ Xuân Hương, Từ cội nguồn vào thế tục.
Nxb Giáo Dục . Hà Nội.
*Hoàng
Xuân Hãn. Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long.Về Tình sử và
Văn thơ Hồ Xuân Hương. Tạp Chí Khoa Học Xã Hội. Số 10,11
tháng 12 năm 1983 Paris tr 92-149 |