HỒ
XUÂN HƯƠNG CÔ HÀNG BÁN SÁCH
PHỐNAM
THÀNH THĂNG LONG (1804-1807)
TS
Phạm Trọng Chánh
|
Thơ Tốn Phongbài 12 có hai câu:
Nam
Phố tương tri thập tải tiền, Đào hoa do tự cách tiên nguyên.(Nam
Phố mười năm xưa đã quen, Hoa đào độ ấy cách nguồn tiên.)
Khoảng 10 năm trước năm 1813 Tốn Phong đã đến thăm Xuân
Hương Hồ Phi Mai tại hiệu
sách Xuân Hương, Phố Nam thành Thăng Long, thuở ấy nàng ở
cáchxa nơi sinh trưởng của
nàng Cổ Nguyệt Đường, làng
Nghi Tàm. Xuân Hương nói
mười năm cho gọn, nhưng sự thật chỉ sáu, bảy năm. Tốn
Phong đến Thăng Long dạy học sau kỳ thi Hươngtrường
thi Nghệ An, năm 1806 và năm 1812.
Theo
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến trong Giai Nhân Di Mặc, Imp du Tonkin
1917: " Sau Xuân Hương có thiên ra thôn Tiên Thị, tổng Tiên
Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là phố Nhà Thờ, gần đền
Lý Quốc Sư "(Nguyễn Minh Không, Quốc Sư triều Lýthánh
tổ nghề đúc đồng Việt Nam). Nhà Thờ Lớn Hà Nội xây
trên nền chùa Báo Thiên, Tháp Báo Thiên một trong
bốn công trình lớn đẹp nhất nước ta : An Nam Tứ Đại
Khí đời Lý. Tháp bị phá vào thời nhà Minh xâm lược, nhưng
chùa vẫn tồn tại đến đầu thời Pháp thuộc. Ngày nay vẫn
còn một cái giếng cổ của chùa. Nơi
đây có trường ông Nghè Phạm Quý Thích (1760-1825), có nhà
Nguyễn Án (1770-1815), người bạn thân thiếtviết
sách Tang Thương ngẫu lục
chung với Phạm Đình Hổ(1768-1839).
Nghề
bán sách, giấy bút là nghề của vợ hay con gái các ông đồ
ngày xưa, thường mở kế bên trường học. Buôn bán là nghề
của phụ nữ ngày xưa, người buôn bán sách phải biết chữ
nghĩa. Sự kiện Hồ Xuân Hương sau khi dứt tình với Tổng
Cóc, trở về mở quán sách nơi này, có lẽ được sự trợ
giúp của Tiến sĩ Phạm Quý Thích mộtông
Nghè nổi tiếng tại Thăng Long thời bấy giờ, là một người
danh tiếng trong 30 học trò đỗ Tiến sĩ của quan Thám Hoa
Nguyễn Huy Oánh(1713-1789). Ông là bạn thân thiết của Nguyễn
Du, người đầu tiên đem truyện Kiều cho khắc in tại Hàng
Gai năm 1925, giảng cho học trò Truyện Kiều và làm thơ Vịnh
Kiều. Ông lớn hơn Nguyễn Du sáu tuổi và lớn hơn Hồ Xuân
Hương mười tuổi. Ông đào tạo nhiều học trò nổi tiếng
trong đó có Châu Doãn Trí, người quét lá đa đốt lửa học
về sau thành một bậc thầy danh tiếng, có tài đức tiết
tháo, không cầu danh lợi,rất
giỏi về y học, có Nguyễn Văn Siêu(1799-1872) tự
Phương Đình, người cùng Cao Bá Quát (1809-1854) được vua
Tự Đức khen ngợi: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,
có Nguyễn thị Hinh tức Bà Huyện Thanh Quan, học với Hồ
Xuân Hương lại tiếp tục học với ông. Phạm Quý Thích còn
để lại nhiều văn bia khắp Hà Nội như văn bia trùng tu chùa
Trấn Quốc.. là người thân thiết với Nguyễn Du, biết rõ
mối tình Hồ Xuân Hương. Trong Xuân Đường Đàm Thoại của
Tam Nguyên Vị Xuyên Trần
Bích San (1838-1877), ông là người thương, phục tài
Xuân Hương:
"
Xuân
Hương là một nữ lưu tài hoa, tiếng đàn trong vắt, vần
thơ cao đẹp, tao nhân mặc khách nấc nỏm khen kỳ. Dẫu lối
viết Ban Chiêu, cùng đàn Sái Cơ, vần thơ Tô Muội, khúc ngâm
Tạ Uẩn cũng không thể vượt hơn. Chứa trong nhà vàng cũng
không phải là quá vậy. Ai bảo con người mang cái tài tình
như thế mà bỗng đúc kết cái tinh anh như thế. "
Tôi
chưa được đọc Lập Trai Văn thi tập, có thể trong thơ văn
Phạm Quý Thích có những bài xướng họa hay viết về Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương hai người bạn thân thiết của ông chăng
?
Tôi
chưa đọc được thơ văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, lúc
bà chị Hồ Xuân Hương mở hiệu sách, bà chị 35 tuổi đẹp
tuyệt trần, thì cậu Nguyễn Văn Siêu mới là "Dê cỏn buồn
sừng húc dậu thưa ", mới lên tám tuổi, Nguyễn Văn Siêu
có để lại những xúc cảm trước tài năng và sắc đẹp
của bà chị chăng ?.
Giai
thoại tương truyền Hồ Xuân Hương có vay năm quan tiền của
Chiêu Hổ tức Phạm Đình Hổ trong dịp này. Năm quantiền
thời đó rất lớn, đổi ra đồng xâu bằng dây và vác trên
vai. Một quan tiền quý bằng 600 đồng. Một quan tiền gián
có 360 đồng. Chiêu Hổ hứa cho vay 5 quan, nhưng đưa chỉ có
3. Vì không xác định quan
tiền quý hay quan tiền gián . Một quan bằng 10 tiền. Một
tiền quý bằng 60 đồng, một tiền gián bằng 36 đồng. Nên ba
quan tiền quý đổi ra : 3
x 10 x 6O = 1800 bằng 5 x 10 x 36 = 1800. Xuân Hương trách Chiêu
Hổ hẹn sai, hứa không giữ đúng lời. Bao giờ đến thăm
Cổ Nguyệt Đường, anh là chú Cuội trên cung trăng, nên nói
dối như Cuội, nhớ hái cho tôi xin nắm lá đa.
Xuân
Hương trách:
Sao
nói rằng năm lại có ba ?
Trách
người quân tử hẹn sai ra,
Bao
giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ
hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu
Hổ đáp:
Rằng
gián thì năm, quí có ba,
Trách
người thục nữ tính không ra.
Bao
giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Cho
cả cành đa lẫn củ đa.
Chiêu
Hổ chắc không giàu lắm, nhà ở phố Hàng Buồm, đi dạy
học ở thôn Khánh Vân hạ lưu sông Tô Lịch, cha mất sớm
từ năm lên mười, chẳng dư giả gì để cho Xuân Hương mượn
nhiều. Trả lời rằng cho muợn ba quan tiền quý bằng năm
quan tiền gián. Tại nàng dốt toán nên tính không ra. Bao giờ
chú cuội đến chơi mặt trăng sẽ cho cả cành lẫn củ đa.
Cây đa làm gì có củ, Chiêu Hổ đùa dai để khỏi ngượng.
Cũng
có thể Xuân Hương vay tiền Nguyễn Án (1770-1815), hiệu Kính
Phủngười đương thời gọi
Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, và Hồ Xuân Hương là Tam Tài Tử.
Nhà bên cạnh Hồ Gươm, năm 1805 được vua Gia Long mời ra
làm Tri huyện Phù Dung, nơi Nguyễn Du trấn nhậm đầu tiên
năm 1802. Năm 1806, Nguyễn Án lại dự thi khoa thi Hương đầu
tiên triều Gia Long đỗ Cử nhân năm 1807, lại được bổ
làm Tri huyện Tiên Minh ( nay là tỉnh Kiến An).
BàiCô
Hàng sách Xuân Hương quảng cáo cho các nho sinh trường ông
Nghè Phạm Quý Thích các tựa sách do nhà xuất bản ở Hàng
Gai khắc in: Nữ Tú Tài, Phương Hoa, Tuyển Phu, Chinh Phụ Ngâm,
Bích Câu Kỳ Ngộ. sách hay đọc sẽ thú vị mê say:
CÔ
HÀNG SÁCH
Cô
hàng lấy sách cắp ra đây !
Xem
thử truyện nào, thú lại say.
Nữ
Tú có
bao xin xếp cả,
Phương
Hoa phỏng
liệu có còn hay ?
Tuyển
Phu mặc
ý tìm cho kỹ,
Chinh
Phụ thế
nào bán lấy may.
Kỳ
Ngộ Bích Câu
xin tiện hỏi,
Giá
tiền cả đó tính sao vay ?,
Chú
thích:
Tính
sao vay: có nghĩa là tính sao đây, vay tiếng cop-" là vậy vay,
vậy thay.
Trong
Xuân Hương Thi Tập.Phúc Văn
Đướng Tàng Bàn Hà Nội, Năm Tân Dậu 1921. có bài thơ hoạ
lại bài Cô háng sách.
THƠHỌA
LẠI
Gia
truyền nghiệp sản vốn hàng đây,
Duy
có Phong tình là hẳn say.
Nữ
Tú phô
trương chưa muốn bán,
Phương
Hoa phong
dấu vẫn còn nay.
Tuyển
Phu tìm
mãi còn chưa thấy,
Chinh
Phụ nên
mua ắt có may.
Kỳ
Ngộ Bích Câu
chàng muốn hỏi,
Giá
tiền tất cả hỏi chi vay.
Trong
bài thơ này ta không thấy truyện Kim Vân Kiều và truyện Hoa
Tiên, điều này cho thấy bài thơ này làm trước, Truyện Kiều
được Phạm Quý Thích cho khắc bản sau khi Nguyễn Du mất
năm 1820vàinxong
đầu tiên năm 1825. Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán của
Đặng Trần Côn có nhiều bản diễn ca thơ nôm: bản của
Đoàn Thị Điểm, của Nguyễn Khản, Phan Huy Ích… Bích Câu
Kỳ Ngộ truyện của Đoàn thị Điểm trong Truyền Kỳ Tân
Phả, nhưng lại không biết người diễn ca thơ nôm. Ngày
xưa không chú trọng đến việc đề tên tác giả trên bìa
sách, chỉ nhờ có bài đề tựa ta được biết đến tác
giả. Tại Thư Viện Quốc Gia Paris có rất nhiều truyện thơ
Nôm không biết tác giả là ai. Trường hợp lầm lẫn giữa
hai văn bản diễn ca Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích, bản
Phan Huy Ích xuất hiện muộn nên hiện đại và đọc dễ hiểu,
đọc thấy hay và thú vị gần gũi với chúng ta hơn. GS Hoàng
Xuân Hãn đã minh định rõ ràng qua quyển Chinh Phụ Ngâm bị
khảo Minh Tân Paris xuất bản 1952, nhưng người đờỉ"duy
tâm" cứ thích một nhà thơ phụ nữ hơn nên cứ gán bản
được phổ biến rộng cho
Đoàn Thị Điểm. Có biết đâu chữ Nôm thời Đoàn Thị Điểm
cách Phan Huy Ích 60 năm, nhiều chữ đã mất khó đọc. Hiện
nay có Hồng Hà Phu Nhân Di văn có hàng trăm bài thơ và văn Đoàn
Thị Điểm trong đó có 28 bài thơ trào phúng, Bà Nguyễn Kim
Hưng, phu nhân GS Nguyễn Huệ Chi tìm ra từ năm 1978 nhưng hiện
nay nhiều chữ vẫn chưa ai đọc được, vì người đọc được
là GS Hoàng Xuân Hãn đã qua đời năm 1996.
Cuộc
thống nhất đất nước của vua Gia Long năm 1802 từ Đàng
Trong đã làm mất đi nhiều từ ngữ của Đàng Ngoài thời
Lê Trịnh. Truyện Kiều của Nguyễn Du và Chinh Phụ Ngâm Khúc
của Phan Huy Ích đã làm hiện đại hóa tiếng Việt, khiến
cho ngày nay chúng ta đọc những tác phẩm trước đó như thơ
nôm vua Lê Thánh Tôn, Cung Oán Ngâm Khúc, các bản dịch Chinh
Phụ Ngâm của Nguyễn Khản, Đoàn Thị Điểm ta bắt gặp
những từ cổ khó hiểu và nên ta không có cảm xúc bằng.
Ngoài
các sách do Hàng Gai in, Hồ Xuân Hương còn bán cả giấy là
Bưởi, bút, mực, các sách giáo khoa: Tam tự kinh, Sơ học vấn
tâm, Ấu học ngũ ngôn thi, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia
huấn, Tiểu học diễn nghĩa, Tứ Thư, Ngũ Kinh. Sách Toát Yếu
của cụ Nghè Bùi Huy Bích, môn sinh củ Bang nhản Lê
Quý Đôn, đang dạy học làng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì,
Hà Đông. Các sách của các thương nhân Trung Quốc từ Quảng
Đông chở sang: Xuân Thu Chiến Quốc, Tam Quốc Chí, Liêu Trai
Chí Dị, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Nam Hoa Kinh, Tây Du Ký,
Thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Đào Tiềm, Lục Du.Điều
này chứng minh sau thời gian bán sách, Xuân Hương có dịp đọc
sách, đọc nhiều thơ, từ đó trong thơ Hồ Xuân Hương sử
dụng nhiều điển tích hay lạ thay vì sử dụng ca dao, tục
ngữ.
Ngày
xưa chỉ có các dòng họ lớn mới có nhiều sách, họ tích
lũy nhiều đời nhân những dịp đi sứ, hay họ ở các bến
cảng như Phố Hiến, Hội An, Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội..Các
thương nhân Trung Quốc mang sách đến bán. Các đại gia mua
về trử làm thư viện cho con, cháu, nên con cháu cả dòng họ
có phương tiện học hỏi, thi cử đỗ đạt làm quan. Thời
Hồ Xuân Hương có hai thư viện nổi danh: là Phúc Giang thư
Viện của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, là thư viện chứa
hàng vạn quyển sách, là thư viện duy nhất được triều
đình sắc phong. Nhờ thư viện này mà Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh
đã đào tạo học trò 30 người đỗ Tiến sĩ, hàng trăm người
đỗ Cử Nhân, một kỷ lục chưa từng thấy trong Lịch Sử
khoa Cử Việt Nam ngày xưa.Thư
Viện họ Nguyễn Tiên Điền cũng nổi danh ngang hàng với Trường
Lưu, nhưng sách vở đều bị cháy trong cuộc khởi nghĩa Nguyễn
Quýnh (1788-1891) mười phần chỉ còn lại một hai. Về sau
có thư viện dòng họ Cao Xuân Dục, mỗi văn bản được sao
chép tay làm 5 bản, cũng rất nổi tiếng.
Xuân
Hương không những chỉ bán sách, nàng bán cả tranh Đông Hồ,
Hàng Trống in mộc bản tô mầubtrên giấy điệp, bồi trên
giấy cứng hoặc lụa, hai thanh trúc kẹp hai đầu, có thể
cuốn tròn lai hay mở ra treo. Tranh Tố Nữ nàng bán cho các
thư sinh đang trọ học tại Thăng Long, mơ mình như chàng Tú
Uyên trong Bích Câu Kỳ Ngộ, đi học về sẽ bắt gặp nàng
Giáng Kiều từ trong tranh dáng yểu điệu như hoa mai, e ấp
như liễu, mong manh tha thướt trước gió xuân, má đào hồng
thắm mặc áo tứ thân màu sắc như tiên từ trong tranh bước
ra dọn dẹp thư phòng, nấu ăn cho chàng. Và còn những thú
vui khác mà ông thợ vẽ không thể vẽ hết được, để người
xem tranh tưởng tượng.
TRANH
TỐ NỮ
Hỏi
bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?
Chị
cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi
lứa in như tờ giấy trắng,
Nghìn
năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu
mai chi dám tình trăng gió,
Bồ
liễu thôi đành phận mỏng manh;
Còn
thú vui kia sao chẳng thấy,
Trách
người thợ vẽ khéo vô tình !
Chú
thích:
Phiếu
mai: bài thơ trong Kinh Thi : người con gắi mong đợi sợ lỡ
tuổi xuân như hoa mai rụng dần.
Bồ
liễu: cây bồ, cây liễu dáng mềm tha thướt để ví thân
hình người phụ nữ.
Nhiều
văn bản chép Vịnh hai tố nữ. Tôi xem nhiều tranh Hàng Trống,
Đông Hồ chỉ thấy một thiếu nữ vẽ bốn bức thành một
bộ, chẳng có tranh nào vẽ hai thiếu nữ. Chị cũng xinh mà
em cũng xinh theo tôi Xuân Hương nói chị là Xuân Hương, và
em là người đẹp trong tranh. Xuân Hương mời các thư sinh
mua tranh em trong tranh cũng đẹp như chị, mua tranh em về treo
thì cũng như thấy chị. Khổ nỗi các thư sinh trường ông
Nghè Phạm Quý Thích chỉ đến ngắm bà chị mà quên mua tranh
em. Nếu không Xuân Hương đã giàu to.
Trên
Tạp Chí Văn Học số 3 năm 1974. Ông Nguyễn Huệ Chi, Trần
Tuấn Niệm có công bố bốn bài thơ nôm của Hồ Xuân Hương,
tìm thấy ở nhà cụ Vũ Hữu Viễn ở Thanh Hóa trong đó có
bài Đề Tố Nữ tranh.
ĐỀ
TỐ NỮ TRANH
Chẳng
để ai vào dưới mắt xanh,
Trơ
trơ bắt mặt đứng làm thinh.
Càng
thêm hương phấn càng chơ chỏng,
Ai
vẽ cho nên một chữ tình.
Hiệu
sách Xuân Hương không chỉ bán sách, giấy bút, bán tranh mộc
bản mà còn bán cả quạt.
CÁI
QUẠT
Bài
I
Một
lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên
em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành
ra ba góc da còn thiếu,
Khép
lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát
mặt anh hùng khi tắt gió,
Che
đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng
niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì
phạch trong lòng đã sướng chưa ?
Chú
thích :
Một
lỗ : lỗ dùi để xỏ các nan quạt ở chổ cuốn tay cầm,
Da
còn thiếu : qụat mở ra hình tam giác, chỉ có nửa trên là
giấy, khi ghép lại những chổ giấy ấy thừa ra.
Trướng
: là màn treo trước giường.
Bài
II
Mười
bảy hay là mười tám đây ?
Cho
ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng
dày chừng ấy chành ba góc,
Rộng
hẹp dường nào cắm một cây.
Càng
nóng bao nhiêu càng muốn mát,
Yêu
đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng
hồng má phấn duyên vì cậy.
Chúa
dấu vua yêu một cái này.
Chú
thích:
17,
18, quạt thường có 17 hay 18 nan. Có thể hiểu là cô gái 17,
18 tuổi.
Một
cây: Cây xỏ nan quạt ở lỗ dùi.
Hồng
hồng: quạt thường dán hồ trắng
pha chút phẩm, hay nước
trái cây, nên màu sắc có vẻ màu hồng.
Hai
bài thơ quảng cáo bán quạt làm kích động bao chàng thư sinh,
nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò trường ông Nghè Phạm. Có
lẽ các bài thơ này có đọc cho Tốn Phong nghe cho nên Tốn
Phong đã viết " Hứng lai dã giáo thi sinh quỷ. Sầu khứphương
tri tửu hữu thần" (Hứng về lại thấy thơ sinh quỷ. Sầu
đến rồi hay rượu có thần ). Đám quỷ con kéo nhau đi xướng
họa lôi thôi, chắc là quá dỡ nên bị bà chị phán cho bốn
câu:
DÊ
CÕN
Khéo
khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại
đây cho chị dạy làm thơ.
Ong
non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê
cỏn buồn sừng húc dậu thưa.
Đáng
tiếc cậu Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) còn bé quá mới tám tuổi,
không thì bà chị Hồ Xuân Hương phải biết tay. Có lẽ vì
bị mắng thế nên cậu quyết tâm dồi mài kinh sử mà trở
nên một bậc văn hào như Đặng Trần Côn bị bà chị Đoàn
Thị Điểm chê, nên quyết tâm đọc sách, đem những câu thơ
tuyệt tác Trung Quốc kết lại thành Chinh Phụ Ngâm Khúc khiến
bà chị phải kính phục đem diễn nôm.. Bị mắng đau như
thế các cậu còn mặt mũi nào mà đến ngắm bà chị, nên
quán sách nàng chỉ còn dành cho các thầy, các quan.
Có
quan Hậu đến mua sách, mê thơ, thừa dịp vợ đi chợ đến
chơi với nàng, nhưng lại tỏ ra lo lắng sợ vợ đến, nên
đứng ngồi không yên. Xuân Hương viết bài :
GIỄU
QUAN HẬU
Tình
cảnh ấy, nước non này,
Dẫu
không Bồng Đảo cũng tiên đây.
Hoành
Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thúy
Lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp
ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất
phơ sườn núi lá thu bay.
Hỏi
người quân tử đi đâu đó ?
Đến
cảnh sao mà đứng lượm tay.
Chú
thích:
Quan
Hậu là chức quan Hậu Bổ,đã
thi đậu trường thi Hương hay được tiến cử, chờ có chức
khiếm khuyết mới được bổ nhiệm ăn lương. Trong khi chờ
đợi thì ăn lương vợ.
Bồng
Đảo nơi tiên ở. Dẫu đây không phải là Bồng Đảo nhưng
có tiên là Xuân Hương. Gặp Xuân Hương như gặp tiên .
Hoành
Sơn, dãy núi nằm ngang chắn ngang Đàng Trong và Đàng Ngoài
thuộc Quảng Bình. Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng vào
Thuận Hóa lập nghiệp: Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung
thân. Một dãy Hoành Sơn dung thân được muôn đời.
Thúy
Lĩnh là núi Dục Thúy trên đường vào Nam đến Ninh Bình.
Nơi đây có nhiều thi nhân đến đề thơ. Có bản chép Hàn
Sơn, và Thứu Lĩnh. Hàn Sơn là chùa Hàn Sơn ở Tô Châu nơi
Trương Kế viết bài thơ Phong Kiều dạ bạc, nhưng bài thơ
Ánh trăng nhô đầu núi làm quạ hoảng hốt tung bay. Trong thơ
Xuân Hương lại là cảnh núi tranh thủy mặc có đôi hàng
nhạn tung bay. Thứu Lĩnh hay núi Linh Sơn nơi Phật cư ngụ
và thuyết pháp Kinh Pháp Hoa. Tại sao núi Thứu Lĩnhmây
đen lại che phủ. Thứu Lĩnh có thể là núi có cảnh chùa.Có
bản ghi tựa là Cảnh Chùa ban đêm. Nhiều văn bản giải thích
Hoành Sơn và Thúy Lĩnh chỉ là đôi vú nằm ngang của người
phụ nữ.
Lượm
tay là đứng bó tay.
Trong
tình cảnh chàng lén lút đến thăm Xuân Hương, đến nước
non này. Dẫu không là cõi bồng lai cũng có người tiên là
Xuân Hương đây. Cảnh đẹp như núi Hoành Sơn có hai hàng
nhạn tung bay. Có núi Thúy Lĩnh mây đen bao phủ.
Ngồi
quán sách phố Nam thành Thăng Long. Thành cũ bị phá, Tổng
Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành xây dựng lại thành mới
trong bốnnăm 1803-1807. Phủ
Chúa xây dựng 243 năm bị đốt cháy, cung vua cũng hoang tàn,
hành cung, nơi nổi tiếng một trong tám thắng cảnh Tây Hồ:
Tiếng đàn hành cung, trở lại thành chùa Trấn Quốc, những
người nhạc nữ đàn khúc cung phụng trong cung vua ngày xưa
giờ đàn kiếm ăn nơi quán chợ, hay các bữa tiệc quan. Các
quan thị hầu hạ trong cung vua ngày xưa giờ cũng bơ vơ giữa
chợ đời, người đi tu như quan thị Huệ, thành sư trụ
trì chùa Kim Liên bên cạnh Cổ Nguyệt Đường, người thì
la cà quanh các hiệu buôn như hiệu sách Xuân Hương, mong được
sai chút việc để được trả vài đồng.Các quan thị ngày
xưa được tuyển chọn những người á nam, á nữ, hay tự
thiến để làm việc vặt trong cung vua. Xuân Hương có bài
GIỄU
QUAN THỊ
Mười
hai bà mụ ghét chi nhau,
Đem
cái xuân tình vứt bỏ đâu.
Rúc
rích thây cha con chuộc lắc.
Vo
ve mặc kệ cái ong bầu.
Đố
ai biết được vong hay chóc,
Còn
kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi
thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn
năm khỏi bị tiếng nương dâu.
Chú
thích:
Mười
hai bà mụ: ngày xưa người ta tin rằng khi sinh ra do 12 bà mụ
nắn hình, mỗi bà trông nom một năm cho đến khi đứa trẻ
12 tuổi.
Xuân
tình: Cái giống đàn bà.
Vông
hay chóc: tục ngữ: Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc. Theo
Phạm Hoàng Hộ trong cây cỏ Việt Nam tr 594 hình 222E và hình
109A, 109E tr 298. Lá chóc trước khi nở giống như cái giống
nam. Và vông hình tam giác trông giống như cái giống nữ..
Nương
dâu: trai gái nước Vệ thời Xuân Thu, thường hẹn hò nhau
ở bãi nương dâu, do đó nưong dâu chỉ thói trăng hoa dâm
dãt.
Quan
thị: ngày xưa truyền tụng hai câu đối của Quan Thị và
Quan Võ chế diễu lẫn nhau:Thị
vào chầu, thị đứng thị xem, thị thấy thị thèm, thị không
có ấy. Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ mắc mưa vũ ướt
cả lông.
Mở
hiệu sách được ba bốn năm. Xuân Hương đành dẹp tiệm
vì khách hàng là một đám dê cỏn đến ngắm bà chị xinh
đẹp nhất thành Thăng Long, chẳng mua bán gì. Đám quan hậu
bổ chưa có việc làm còn ăn lương vợ la cà tán gẩu và
một đám quan thị đến xin việc chờ sai bảo. Tốn Phong đến
thăm Xuân Hương trong hoàn cảnh này: " Mẹ già, nhà túng nên
ăn ở không yên ổn." Nàng theo chị em đi buôn, các hội làng,
đem hàng bán cho các phú hộ, các quan các trấn, nơi đây nàng
gặp gỡ Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh, và Tri Phủ
Tam Đái (Vĩnh Tường) Trần Phúc Hiển.
Paris,14-2-2014PHẠM
TRỌNG CHÁNH
Tiến
Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V. Sorbonne
Tiếp
theo kỳ tới
HỒ
XUÂN HƯƠNG ĐI BUÔN (1807-1811) |