Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ] [ Tác
giả ]
|
|
I . Ba năm vẹn mối tình Nguyễn Du & Hồ Xuân Hương |
I
. 1.
Mùa hè 2011, sau một chuyến du hành khắp nước, tôi dành 5 ngày về ở tại Làng Nghi Tàm trên đường Xuân Diệu. Suốt năm ngày dù trời mưa gió, hay nắng tốt tôi cũng đi khắp làng Nghi Tàm, khắp các đình, chùa, vườn hoa kiểng quanh Hồ Tây, tôi hỏi thăm, trò chuyện cùng các cụ già, thăm dấu vết từng di tích ghi dấu trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ và nhất là 31 bài thơ của Tốn Phong Nham Giác Phu, viết ca tụng nữ thi sĩ: Tao đàn xuất hiện vị thơ thần và cũng là người đẹp Phi Mai xuân sắc nhất kinh thành, mà hai trăm năm qua cả nước tốn không biết bao nhiêu là bút mực tìm kiếm về nàng. Hồ Xuân Hương, tên thật là Hồ Phi Mai, con cụ Hồ Phi Diễn, chánh quán tại Quỳnh Lưu, Hà Tỉnh,và bà mẹ họ Hà quê Hải Dương, nhưng sinh ra và lớn lên tại làng Nghi Tàm, nơi nổi tiếng nghề dệt lụa, làm giấy, dệt lĩnh đen. Tây Hồ có cảnh đẹp " Tây Hồ Bát Cảnh ". Một thi xã đời Vĩnh Hựu (1735-1739) nhà Lê đã ca tụng tám cảnh đẹp quanh Tây Hồ: - Bến trúc Nghi Tàm: bến tắm chúa Trịnh Giang dưới dãy trúc ngà làng Nghi Tàm. - Rừng bàng Yên Thái: khu rừng bàng trên núi đất làng Bưởi do chúa Trịnh Giang bắt trồng. - Đàn thề Đồng Cổ: Đàn do vua Lý Thái Tông (1028-1054) xây để hàng năm quần thần đến đây, để hàng năm quần thần đến thề để tỏ lòng trung hiếu. - Phật say làng Thụy. Chùa làng Thụy Chương có pho tượng Phật chống gậy, người thợ điêu khắc sai trông giống như dáng người say rượu, lại hóa ra một kiệt tác, ai xem cũng thích thú. - Sâm cầm rợp bóng: Nghề săn chim sâm cầm ở các làng quanh Hồ Tây. - Đồng hoa Nghi Tàm: Làng Nghi Tàm làm nghề trồng hoa có những vườn hoa rất đẹp. - Chợ đêm Khán Xuân: Chúa Trịnh thường họp hội chợ đêm cùng các cung nữ, thái giám tại đền Khán Xuân để mua vui. Phạm Đình Hổ trong Tang Thương ngẫu lục bài chuyện cũ trong vương phủ có tả cảnh hội chợ: nội thị, cung nữ bắt chước việc mua bán ngoài đời làm trò vui.Chợ đêm vào dịp Trung Thu, hàng ngàn chiếc đèn lồng do các cung nữ chế tạo bằng gấm trong cung, treo khắp nơi. Các quan nội thị chít khăn như đàn bà ngồi bán đủ các thứ hàng, các cung nữ đi lại vừa mua vừa tranh cướp, bắt chước những tiếng thường dùng nơi chợ búa. Nửa đêm Chúa Trịnh ngự xuống thuyển rồng, thuyền bơi qua bơi lại đàn sáo, người hát xướng hoà ca cho đến khi gà gáy. - Tiếng đàn hành cung: Tiếng đàn các cung nữ nơi hành cung chúa Trịnh nay là chùa Trấn Quốc. |
I
. 2.
Cổ Nguyệt Đường nơi đâu ? Tôi đi nhiều lần trên con đường nhỏ không tên từ chùa Kim Liên đến đình Nghi Tàm và đọc lại thơ các danh sĩ, Nhà nàng là một khu đất rộng trên đường này, nằm bên Bến trúc Nghi Tàm. Tốn Phong gọi nhà nàng là đình, hay viện Thơ Tốn Phong : Ai đến đình mai hỏi chủ nhân Bài 3) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa, Bài 5, Riêng tựa đình mai một ánh trăng Bài 7 Đình nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm ,Bài23.. Cổ Nguyệt Đường là một ngôi nhà lớn, năm cụ Hồ Phi Diễn thọ 80 tuổị, năm 1783, học trò cụ lớn, bé, kẻ làm quan đỗ đạt đã chung góp tiền lại xây nhà cho thầy, năm ấy vì bận rộn xây cất, Xuân Hương Hồ Phi Mai được gửi về Quỳnh Lưu quê cha một thời gian. Đó là tục lệ mừng thượng thọ 80 cho thầy ngày xưa, cụ sống đến 83 tuổi, và bà mẹ Xuân Hương họ Hà sống đến năm 1814. Năm 1813 Tốn Phong còn gặp.Năm 1814 Trần Phúc Hiển cưới Xuân Hương, nhưng vì cư tang mẹ một năm, nên năm sau mới về Vịnh Hạ Long. Đình làng Nghi Tàm xưa là một khu đất rất rộng, xưa có Đài Khán Xuân của Chúa Trịnh, nay chỉ còn một cái đình nhỏ khu đất hẹp lại. Cạnh đài Khán Xuân còn có ngôi gác tía của Nguyễn Khản, anh Nguyễn Du, ông thường ra đây đi câu cùng Chúa Trịnh. Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Du về với anh Nguyễn Nể ở Bích Câu, dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh phá hủy, Nguyễn Nể khi ra làm quan Tây Sơn có lẽ đã cho xây dựng lại một ngôi nhà trên đất này, nhưng Nguyễn Du thì thường ở nơi ngôi gác tía cạnh đền Khán Xuân. Cổ Nguyệt Đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tùy bút tr 42, cho biết năm 1798-1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương.. Trong Tang Thương Ngẫu lục,q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. " Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương) " Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên.Qua Vũ Trung Tùy bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính Phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm, (nay là phố Nhà Thờ). Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt Đường thế nào? : Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu Hương Ký.: Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình bài 6. Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa Bài 5, Bên quán người hoa chỉ thích mai.Bài 9 Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa bài 26. Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh. Bài 6, Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14, Khóm trúc đình mai ta với ta, bài 21,Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân bài 25 Trên bến có trồng vài cây liễu: Bến nước đìu hiu liễu rủ cành, bài 6 Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh ,bài 17. Nhà Xuân Hương có trồng nhiều hoa, hoa đào, để bán như các nhà khác trong làng Nghi Tàm: Nàng đây đối mặt giữa hoa ngàn, bài 7. Gió mát từng cơn quét ngấn hồng (hoa đào) bài 8. Muôn tía ngàn hồng xuân sắc tới, bài 9 . Hoa trời khai nở rộ đình xuân, bài 25. Hồ Xuân Hương có nuôi một con chim phượng hoàng đất do người bà con từ Quỳnh Lưu gửi cho: Biếc rụng cành ngô sân phượng múa bài 6. Thơ thời niên thiếu Hồ Xuân Hương có bài Vịnh ông cắn đánh nhau, tả hai con chim phượng hoàng đất bài 35 phần C văn bản Landes. Nhà nàng quay mặt về hướng Đông nhìn ra Hồ Tây:: Đối mặt trời xanh, mưa móc thuận Bài I. Nhà được xây cất theo hình chữ khẩu: Có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy,mực, sách. Hoa đơm tả viện hương còn ẩm, bài 22. Hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng Hồ Xuân Hương.Chính giữa, sân trống có hòn non bộ và chậu kiểng: Chim hót non hàn khói biếc dâng, bài 22 |
I
. 3.
Cổ Nguyệt Đường cũng không xa Đền Khán Xuân, nay là khu đình làng Nghi Tàm, nơi đó cha, anh Nguyễn Du có ngôi nhà mát để câu cá.. Nguyễn Du sau ba năm(1787-1790) chu du Vân Nam, Trường An, Hàng Châu gặp anh Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tại Hoàng Châu, trở về ở Thăng Long ở với anh Nguyễn Nể. Trong bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du gọi Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm, và hẹn hò cùng nàng hái sen. Mối tình ba năm (1790-1793) Chữ tình chốc đã ba năm vẹn .Thơ Hồ Xuân Hương bài Cảm Cựu. Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân, Tiên Điền nhân..
Bài Mộng đắc thái liên, Nguyễn Du làm khoảng năm 1804-1805, sau khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông Các Học Sĩ, chức vụ thân cận vua Gia Long, hàng ngày dâng sách cho vua đọc, bàn luận cùng vua về trị nước, thảo các chiếu biểu cho vua. Nhìn hồ sen hồ Tịnh Tăm, Nguyễn Du không khỏi nhớ đến những ngày mơ mộng hơn mười năm xưa đã cùng nàng cô hàng xóm, hẹn nàng đi hái sen,nàng đã đến trong lòng chàng từ lúc nào, tiếng nàng vọng từ sau khóm hoa. Nguyễn Du kín đáo ví von tình mình như sợi tơ bền vấn vương hoài không dứt. Xắn gọn chiếc quần ống rộng có dây thun phiá dưới, phùng ra như cánh bướm, chèo thuyền đi hái sen, nước hồ lai láng, dưới nước in bóng hai người. Hái sen Hồ Tây, hái hoa và hái gương, hoa tặng người mình kính, gương tặng người mình thương. Hôm ấy đi hái sen, hoa Nguyễn Du tặng cho bà Hà, mẹ của Xuân Hương và anh Nguyễn Nể, và gương có lẽ tặng hết cho Phi Mai để nấu chè hột sen !. Sáng sớm đi hái sen, hẹn với nàng láng giềng, nàng đến không biết tự lúc nào, sau khóm hoa đã nghe nàng cười nói ròn rã.. Ai cũng thích hoa sen, nhưng mấy ai thích thân hoa sen, có những sợi tơ bền, vấn vương không bao giờ dứt. Nguyễn Du đã kín đáo ví lòng mình, mối tình với nàng không bao giờ dứt.. Lá sen màu xanh xanh, hoa sen đẹp xinh xinh, vì đâu ai hái đã làm lìa ngó, mà năm sau chẳng có hoa sen.? |
I . 4.
Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký có câu: Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ. Lời thơ đề chùa Trấn Quốc rêu phong cổ kính còn vang vọng. Bài Đề Trấn Quốc Tự Hồ Xuân Hương chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, tập thơ này gồm những bài ngâm vịnh rất đứng đắng, có lẽ Đại Thần Trương Đăng Quế, Tùng Thiện Vương đã đọc tập này nên sánh với Mai Am Công Chúa với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh (Thế kỷ 19, các nhà thơ đương thời nhìn Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đứng đắn, lãng mạn, không có chuyện là một nhà thơ dâm tục) Ai là người đến
đó khách đài trang, dòng dõi quyền quí, cơn gió nam nhẹ lướt
êm êm, trăng nước sóng lồng cánh sen vừa mới nở, non nõn
tinh khiết. Khói hương chùa như chiếc tàng lộng quý báu,
lại bay lên, như cánh cò cánh hạc nối mây. Đóa hoa sen mới
nở như nụ cười hàm tiếu nhẹ nhàng rửa tan niềm tục,
cỏ xanh mùa xuân như gợi tỉnh niềm mơ. Đến cảnh muốn
nhìn lại hỏi chàng. Nguyễn Du lòng đang muốn về quê Hồng
Lĩnh, tung tay áo vẫy gọi đàn hồng nhạn bay về phía Đông
Nam.
|
I . 5.
Bài Hỏi Trăng trong thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương, văn bản Landes do Lê Quý chép năm 1882 từ một bản của con cháu Tử Minh, học trò Xuân Hương.ghi lại tâm sự một người con gái mới biết yêu. Yêu Nguyễn Du rồi Xuân Hương tự hỏi với lòng mình. Hỏi vầng trăng muôn thuở, mấy thu qua vẫn tròn, câu hỏi vu vơ cớ sao trăng tròn lại khuyết, hỏi thỏ trên cung trăng bao nhiêu tuổi. Hỏi chị Hằng Nga vợ Hậu Nghệ đã mấy con rồi. Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du con nhà quyền quí ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau thẹn với mặt trời đang lên. Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non, với chàng. Hỏi trăng Trải mấy thu nay
vẫn hãy còn,
|
I . 6.
Bài Duyên kỳ ngộ trong văn bản Landes. Xuân Hương tin rằng gặp Nguyễn Du là duyên kỳ ngộ. Vì dinh thự cha anh ở Bích Câu bị kiêu binh đốt phá, nên mới ra ở nơi gác tía câu cá của ông anh Nguyễn Khản nên có dịp gần gủi với Xuân Hương. Hồ Phi Mai tin ở duyên số, dù có xa nhau ngàn dậm, có duyên thì sự cũng thành, sẽ cưới nhau. Xin đừng lo lắng mà phí cả tuổi xuân xanh. Gặp nhau nói chuyện thơ văn, thơ họa nhau không dứt; tình trong sáng nguyên vẹn, dù có ai dương cung đe doạ hay nói xấu việc gì, mình cũng như lá lành, cung tên bắn gần lá trợt lớt, chẳng sao. Sẳn bút đề thơ, chúng ta cứ đàng hoàng, chỉnh tề cư xử chẳng sợ ai. Không cần thả lá đề thơ như cung nữ Hàn Thúy Tần với chàng Vu Hựu. Lòng ta như chim tới vườn đào, tình sẽ đẹp tươi. Duyên kỳ ngộ Nghìn dậm có duyên
sự cũng thành,
|
I .7.
Rồi một ngày cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1793, mối tình đúng ba năm vẹn. Mùa Xuân 1790 hẹn gặp Đoàn Nguyễn Tuấn ở Thăng Long, Nước nhà hẹn gặp lại xuân sang Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tặng bạn văn chương họ Nguyễn tại Hoàng Châu,Trung Quốc, mùa hạ sen nở, gần đến cuối hạ mới đi hái sen hái gương quen Hồ Phi Mai. Nguyễn Du báo tin cho Hồ Phi Mai biết chàng trở về Hồng Lĩnh cùng em Nguyễn Ức, xây dựng lại từ đường, đình chùa, cầu Tiên cùng làng Tiên Điền đã bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ làm cỏ, đốt phá năm 1790 do cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh. Anh Nguyễn Nể sau khi đi sứ về, làm quan ba năm tại Bắc Hà, Vua Quang Trung mất năm 1792, nay được Vua Cảnh Thịnh thăng Đông Các Đại học sĩ, gia thăng Thái Sử, Thự tả Nghị lang, được lệnh về Phú Xuân trông coi văn thư Cơ Mật Viện. Chức vụ gần như thường trực, thầy dạy bên cạnh vị vua trẻ mới lên mười. Nguyễn Nể không thể trông coi việc xây cất nên giao việc này cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức, nhất là Nguyễn Ức có tài kiến trúc, vẽ kiểu ,tính toán, chỉ huy thợ về sau cung điện Phú Xuân thời Gia Long Minh Mạng đều do ông chỉ huy xây cất. Biết tin này Hồ Xuân Hương đau đớn viết bài Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút phụng trình. Nghĩ đến tình đời sụt sùi rơi lệ, nhân đó cầm bút viết nhanh thơ đưa Nguyễn Du để gửi trình bày tỏ nỗi lòng mình. Mối tình đầu thắm thiết Xuân Hương thệ nguyện ba kiếp hẹn nghĩa non vàng với Nguyễn Du, buồn man mác lòng mình nên thổ lộ cùng chàng..Em chẳng vượt đèo mây Tam Điệp cùng chàng về Hồng Lĩnh, nhưng lời thề nguyền hương lửa ngỡ cũng lên đường theo chàng. Lời nào mình thề hẹn với nhau cùng nước non, chàng có vì trăng gió mà chán chường lòng em chăng ? Dù em có đầy đọa tấm thân em chẳng tiếc. Mình thương nhau làm sao cho trọn tấm lòng. Bài thơ chữ nôm, tựa chữ Hán, chép trong Lưu Hương ký. Tưởng đáo nhân
tình minh
Ba sinh tự hẹn
nghĩa non vàng
Chú thích: |
I .8.
Bài Giang nam phụ níp kiêm lưu biệt hữu nhân, Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam, Hồ Xuân Hương viết năm 1793 để tiễn Nguyễn Du về Hồng Lĩnh. Cuộc tiễn đưa nơi trường đình phía Nam sông Hồng, tên gọi là sông Vị Hoàng, Nam Định ngày nay. Nguyễn Du, Nguyễn Ức mang một số tiền khá lớn, có lẽ là tiền thưởng Nguyễn Nể sau khi đi sứ về, đi thuyền kín đáo, an toàn hơn đi đường bộ. Ngày xưa chưa có va-li, người Việt xưa dùng một tấm khăn vải lớn, bọc hết đồ đạc, hai đầu cột chặt để giữ hành lý, hai đầu kia thắt dây dài mang trên vai. Khăn gói bây giờ chia tay nhau vạn dậm, vạn dậm đây chỉ là một cách nói đi xa xăm, vì từ Vị Hoàng về đến Hồng Lĩnh chỉ vài trăm dậm. Nơi trường đình rót chén rượu đặt trên khay mời trao nhau.Cánh buồm sẽ căng lên đôi cánh vì sầu làm thuyền nghiêng nặng. Chàng đi vì nặng việc gia đình, Em cố nén lòng như nước sông sâu để nước mắt chẳng trào. Nhìn lại cây cỏ cũ mùi hương chửa mất. Xa quê bóng lại núi non Hồng Lĩnh cao ngất. Xa nhau rồi còn sẽ có ngày chúng ta gặp lại nhau. Nếu lỗi lời thề non hẹn biển thì thà chết đi trên ngọn sóng đào.
Chú thích: |
I .9.
Thạch đình tặng biệt. Trường đình nơi sông Vị Hoàng là một cái đình bằng đá, xây chắc chắn vì ven biển nhiều gió bão lớn., nên còn gọi là thạch đình. Đình đá Vị Hoàng là một bến cảng lớn trên đường đi thuyền vào Phú Xuân, các cuộc đi sứ đi thuyền đến đây, có lẽ sợ đường bộ có truông nhà Hồ và phá Tam giang nguy hiểm. Bản Lưu Hương ký thiếu chữ biệt nên các ông Trần Thanh Mại, Đào Thái Tôn lầm tưởng là một người tên Thạch Đình làm thơ tặng Hồ Xuân Hương.. Nguyễn Du đã ứng khẩu bài thơ tặng Hồ Xuân Hương. Bài thơ chữ Nôm của Nguyễn Du. Bấy lâu nay ta đã quen biết nhau, có tình có nghĩa với nhau nhiều kỷ niệm, nay nặng lòng với việc nhà, việc nước anh phải về quê hương. Khúc phượng cầu kỳ hoàng, lời tỏ tình anh chưa nói cùng em, lòng em đã mơ màng giấc chiêm bao. Có chắc ta yêu nhau chưa cho lửa tình bén cháy, những giọt lệ tình tiếc mùa xuân đi qua. Tình như lá xanh hoa vàng nếu chẳng phụ lòng nhau, thì rồi đây chúng ta sẽ có ngày sum họp. Bài thơ khá chua chát hay Nguyễn Du muốn thử lòng nàng có thật yêu mình không ? hay. Xuân Hương yêu tha thiết Nguyễn Du, nhưng chàng có lẽ vì bận hoài bảo công danh, muốn đi vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, nên lòng còn hờ hững. Tròn trặn gương tình cũng có khi. Thạch đình tặng biệt |
I . 10
Bài thơ này Nguyễn Du xứng đáng bị một tát tai, nếu gặp phải người yêu ngày nay, Nhưng Hồ Xuân Hương đã chua xót họa lại bằng bài Họa Thanh Hiên nguyên vận. Văn bản chép là họa Thanh Liên nguyên vận, nhưng Thanh Liên là bút hiệu thi hào Lý Bạch. Bút hiệu Thanh Hiên từ khi về Quỳnh Hải cưới vợ năm 1797 mới dùng, năm 1796 Nguyễn Du còn dùng bút hiệu Chí Hiên. Có lẽ lúc này Nguyễn Du dùng bút hiệu Thanh Liên Chí Hiên chăng ? Bài thơ Hồ Xuân Hương viết: Tay em còn chờ chàng dạy khúc Phượng cầu kỳ hoàng, chờ chàng ngỏ lời cưới em, chàng như cánh phượng đường mây, chàng có tài cao, đường công danh thênh thang đã vội chi. Chua xót đọc bài thơ chàng viết để lại cho em, sao chàng hững hờ duyên em bấy lâu nay mà nở bỏ đi. Thử vàng đá, em treo giá ngọc mà đợi chàng, dù hoa có quý báu như phong gấm, hoa nở cũng có thời gian, em là gái chưa chồng, tuổi xuân nở cũng có lúc, lòng như đào thắm mận xanh còn nhiều niềm vui, chàng ơi, sao đành nở dứt ra đi. Họa Thanh Liên Chí Hiên nguyên vậnNguyễn Du có dạy đàn cho Hồ Xuân Hương. Trong thơ Phạm Đình Hổ bài Sở hữu cảm có câu: Buông đàn cười chẳng gảy. Ngại làm ai chạnh lòng. Tốn Phong từ xa đi ngựa đến, đã nghe tiếng nàng đàn: Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14. Tốn Phong đã từng thổi sáo và Hồ Xuân Hương đánh đàn:Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu, Hứng nhập ly quỳnh chén cổ kim. Đàn chuyển tiếng thu vang tỉnh viện, Mộng chuyền xuân bướm ngát thơm chăn, bài 7. Thuyền Nguyễn Du ra khơi, để lại một mình Xuân Hương Hồ Phi Mai trên thạch đình khóc nức nở |
II Những bài thơ tình gửi đáp Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du từ Tiên Điền đến Nghi Tàm (1794-1796) |
II .1
Nguyễn Du về đến Tiên Điền, Hồng Lĩnh không nhà, anh em lưu lạc.Thật sự thì anh em Nguyễn Du chẳng bao giờ ở tại Tiên Điền cả. Những năm cuối cùng nhà Lê -Trịnh . Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ ngang với Thủ Tướng ngày nay, lại kiêm trấn thủ Hưng Yên, Thái Nguyên và Sơn Tây. . Tại Sơn Tây Nguyễn Khản giao quyền cho Nguyễn Điều làm Đốc Trấn, có Nguyễn Nể phụ tá. Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ nắm giữ binh quyền tại Hưng Yên. Và tại Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh giữ chức Trấn Tả Đội, Nguyễn Du làm Chánh thủ Hiệu, quân Hùng hậu hiệu, đội quân mạnh nhất Thái Nguyên, Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang làm Quân Sư.. Cai Gia nhân vật này có tên trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vốn là người Phản Thanh Phục Minh Trung Quốc, là tay 'giặc già' , được Nguyễn Khản thu nạp làm môn hạ, để dạy võ cho các em, . Thái Nguyên là nơi nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ, trộm cướp, trốn thuế. Cai Gia là người trị nổi đám người này; Nguyễn Du kết nghĩa sống chết với Cai Gia (Sinh Tử giao tình tại. Bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang) nên gọi là anh Cả. Khi nhà Trịnh sụp đổ, Nguyễn Du, Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu (tức Nguyễn Quýnh) chạy sang Vân Nam. (Tôi bác bỏ việc Nguyễn Du nhận tập ấm cha nuôi họ Hà, giữ một chức quan võ nhỏ như gia phả ghi.Thật sự Nguyễn Du là đại diện binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên). Hai anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất năm 1786, Nguyễn Nể làm quan ở Phú Xuân, Nguyễn Quýnh bị Tây Sơn giết năm 1790 tại Hà Tỉnh, Nguyễn Nghi, Nguyễn Trứ đại diện binh quyền cho Nguyễn Khản từ Hưng Yên về ở Chu Kiều, Bắc Ninh làm nghề thuốc. Nguyễn Nghi viết truyện thơ Quân Trung Đối dài 1116 câu, và có con là Nguyễn Toản đỗ Tiến Sĩ đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên Ngoại Lang. Nguyễn Trứ làm nghề thuốc, đậu Tam Trường năm 1779 đời Gia Long có ra làm quan Tri phủ Nam Sách, có con là Nguyễn Thích tri phủ Nghĩa Hưng, Nam Định, Nguyễn Trù tri phủ Vĩnh Tường, và Nguyễn Thị Uyên làm thuốc giỏi được mời vào cung chữa bệnh cho các cung nữ đời Gia Long .Trong anh em Nguyễn Du có lẽ chỉ có Nguyễn Nhưng là ở Hà Tỉnh. Theo Gs Hoàng Xuân Hãn, trong danh sách những người ra cộng tác với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ở Sùng Chính Viện đời Tây Sơn, có Nguyễn Công con Nguyễn Khản, và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều. Nguyễn Hành con thứ hai Nguyễn Điều, nhà thơ tài hoa trong năm nhà thơ nhất nước đương thời, lúc này cũng đang ở Hồng Lĩnh, nên có nhiều kỷ niệm về các cuộc đi săn của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du. Về Tiên Điền, hai anh em Nguyễn Du, ở trong một căn nhà nhỏ trên bến Quế Giang, đầu sông Long Vĩ, cạnh Giang Đình, để tiện việc chở gạch, ngói, gỗ, đá về xây cất bằng thuyền. Nguyễn Du có lẽ nằm nhà trông coi việc trả lương thợ và tiếp nhận vật liệu. Công việc xây dựng lại làng Tiên Điền khá quy mô. Có đến bốn đền thờ họ Nguyễn Tiên Điền: Đền thờ ông Nguyễn Lĩnh Nam tức cụ Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du, đề thờ ông Nguyễn Tiên Lĩnh Hầu tức Nguyễn Huệ (1705-1733) chú Nguyễn Du, đền thờ Xuân Quận Công tức Nguyễn Nghiễm(1708-1776) cha Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn Lam Khê tức Nguyễn Khản (1734-1786). Đền thờ Điền Nhạc Hầu tức Nguyễn Điều (1745-1786).ngoài ra còn có chùa Trường Ninh và Cầu Tiên. Mọi chi phí đều do Nguyễn Nể cung ứng, cuối năm 1794, Nguyễn Du có vào Phú Xuân nhận món tiền thứ hai. Về Tiên Điền, Nguyễn Du chỉ còn người bạn hiệu là Thực Đình (ăn ở đình làng) tặng cho chiếc áo vải, người bạn dạy học lây lất không đủ sống. Sách vở họ Nguyễn Tiên Điền, không kém gì Phúc Giang thư viện họ Nguyễn Trường Lưu hàng vạn quyển sách, được triều đình sắc phong, bị cháy mười phần còn một hai, chất quanh vách nhà, ngoài cửa một khóm cúc vàng, bếp vắng lặng vì thiếu người đàn bà bếp núc. Nguyễn Du hớp rượu cho hồng sắc diện. Về đây sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du phải Khóc cười thời loạn theo trần thế, bệnh yếu lặng câm mà giữ thân. Về Tiên Điền bệnh cũ mười năm trước ở Vân Nam tái phát, NguyễnDu: Nằm bệnh mười tuần bến Quế Giang.Ngày xưa tuần là tuần trăng, nửa tháng, từ trăng tròn đến trăng khuyết. và từ không trăng đến tròn trăng. |
II .2
Nhân có một người quen về Hồng Lĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Nhân tặng, bài này chép trong Lưu Hương ký.: Chàng đã về quê quán, nơi từ đường của danh gia vọng tộc, cách xa bao non núi. Xuân Hương chẳng có dịp may nào để xông pha về thăm chàng. Mấy hàng chữ viết thăm chàng, nước mắt rơi lai láng, một bài thơ, một mảnh giấy lòng em đợi tin chàng. Muốn thả lá đề thơ nhưng e ngại ngọn nước triều không đưa đến, muốn gửi quà nhièu hơn nhưng e ngại mỏi cánh chim hồng. Ước gì có người tiên hiện xuống nơi trần thế giúp tình ta, có vầng trăng soi tỏ tấm lòng. Nhân tặng |
II .3
Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, Gửi bạn bài số 33 trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương viết: Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng, Nguyễn Du đáp lại:Một vầng trăng sáng tình ta đó. Mờ mịt không trung
cát bụi đầy trời, tình hình chính trị mờ mịt, nay Quang
Trung mất, triều đình rối loạn các đại tướng đem quân
đánh nhau. Nguyễn Ánh đang nổi lên ở phương Nam ngày một
mạnh, đã chiếm Gia Định, chưa biết tình hình ra sao. Từ
ngày về Tiên Điền, đóng cửa nằm khàn trong nhà, một vầng
trăng sáng tình ta đó, non Hồng dài trăm dậm, đôi ta chung
chính khí tổ tiên hun đúc. Việc đời trước mắt như đám
mây nổi, sớm hiện rồi tan, thanh trường kiếm dắt ngang
lưng chưa dùng vào việc gì phất phơ trong gió thu. Một mình
không nói nhìn khóm trúc trước sân.Sương tuyết tan đi trúc
sẽ hóa rồng, tài năng kẻ sĩ sẽ được trọng dụng.
|
II .4
Bài Thu dạ hữu hoài trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, Xuân Hương gửi Nguyễn Du: Câu Bóng nhạn về đâu, mây ở lại, Nhạn là Nguyễn Du đã bay xa, mây là Xuân Hương còn ở lại.Bài thơ viết khoảng năm 1794. Đêm tàn, Xuân Hương còn thức, ngơ ngẩn thương nhớ chàng đi xa, nơi lầu mây, rượu rót nhưng không tri âm, không uống để lạnh, nửa vầng trăng tà chiếu lóng lánh bạc.Nước chảy, gió thổi mãi, giọt nước trong hồ đồng rơi đều. Hoa hay trăng tự lòng Xuân Hương, lòng Xuân vắng vẻ, Xuân hứng không nhiều ư ? Bóng chàng như bóng chim nhạn bay về đâu ? Chỉ còn nghe tiếng dế trùng than khóc, dòng nước trôi mãi, đêm tàn thêm lo..
|
II . 5
Nguyễn Du phúc đáp bài Thu da hữu hoài của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu dạ I. trong Thanh Hiên thi tập: Anh đã nghe tiếng dế trùng than khóc nơi tường đông, vì mây ở lại Thăng Long với em nên Hồng Lĩnh trời lạnh ngắt không một vầng mây. Trời đầy sao sáng,
sương móc trắng như bạc, tường đông dế gặp lạnh kêu
buồn thảm, chua xót.(tiếp ý dế khóc bài Thu dạ hữu hoài)
Bầu trời một màu lạnh ngắt không một làn mây. Mây ở
hết bên em rồi, anh chỉ là cánh chim đơn côi trong trời lạnh
giá. Thấm thoát thời gian qua nhanh, tuổi càng cao, tóc bạc
vì nhiều suy nghĩ trông rất thảm thương. Ở mãi nơi đây,
núi xanh chưa chán người, người đi chơi xa bên trời lòng
mỏi mệt, Suốt năm nằm bệnh bến Quế Giang. Sông Quế là
một tên khác của sông Lam, dưới chân núi Hồng Lĩnh.
|
II .6
Xuân Hương đã phúc đáp bài Thu Dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu Vũ. Mưa Thu. Nàng đã khóc khi nghe Nguyễn Du bệnh gần cả năm, tóc đã nhuốm bạc. Trời ảm đạm mây mù dăng mờ mịt, lòng em như mây (tiếp ý mây bài Thu dạ hữu hoài và Thu Dạ I), nhưng mây đầy trời ảm đạm và mù mịt, tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô giọt lệ dài ngắn, trên lá chuối vàng, tiếng thưa mau. Ngâm đọc xong bài Thu Dạ (I) , đê mê như mơ thương nhớ chàng cách xa ngàn dậm, sầu vấn vương dăng mắc mối tình năm canh. Nơi khuê phòng, người nhan sắc, mặt hoa đau khổ vô cùng, một mảnh lòng sầu vẽ mãi không thành.
|
II . 7
Nguyễn Du trả lời bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương bằng bài Thu Dạ II.. Tiết bạch lộ tháng tám âm lịch, hơi thu đã già, qua tháng chín tà tiết sương dâng, không phải chỉ lòng em đầy mây mù đâu, lòng anh cũng lạnh lẽo sương dâng mờ mịt cây cỏ quanh bến giang thành đìu hiu. Bên đèn khuya quạnh quẽ ngóng đợi.Vắt tóc như Chu Công bận lo việc nước, vừa gội đầu vừa tiếp sĩ phu, phải vắt ba lần mới gội đầu xong.Lo cái chí nguyện tàn phai theo ngày tháng, non sông nghìn dậm càng nghĩ càng nhớ càng lo lắng trong ngày dài. Phong cảnh bốn mùa thay đổi riêng mình ngậm ngùi buồn, trời chớm lạnh, mới hay không áo là khổ, nghe tiếng chày người khuê phụ đập vải trong chiều, lòng nhớ đến em nơi khuê phòng trông ngóng.
Chú Thích: |
II .8
Rồi mùa thu sau. Xuân Hương lại gửi đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán. Cố kinh thu nhật, trong Hương Đình Cổ nguyệt thi tập.: Thấm thoát đã bao mùa thu qua, bóng trăng xế bóng, tuổi càng cao ngày một quá thì, nơi chốn cũ phồn hoa nhớ xưa cùng mời rượu chàng. Dòng sông Tô nước chảy về hướng Tây không ngừng nghỉ, trời quang đảng trông rõ bóng núi Tam Đảo phía Bắc xa xa.. Dưới đèn nơi Cổ Nguyệt Đường thương chăn xanh, vật cũ di sản nho học dòng dõi cha ông. Sương móc xuống rơi đọng quanh nhà., sương móc trắng không chỉ rơi nơi anh (bài Thu Dạ II), mà nơi em cũng rơi đọng quanh nhà. Ước gì đôi ta thử gặp lại nhau cho đỡ mong nhớ? Năm hết, tết sắp đến, anh mãi xa thế mãi a ?
Chú thích: |
II .9
Nguyễn Du phúc đáp bài Cố kinh thu nhật của Hồ Xuân Hương bằng bài Khai song, dùng lại điển tích thanh chiên và cũng ý mùa thu. Nguyễn Du vẫn giữ mãi cái chăn xanh, như tấm lòng yêu thương nàng, và cho biết đang chữa bệnh nên chậm thư phúc đáp. Cảnh vật trước
nhà nay ra sao, thong thả mở cửa sổ, thấy cảnh vật tươi
vui, anh nằm đóng cửa, bệnh chẳng biết trời trăng gì. Sáu
tháng qua có gió lớn đưa cánh chim Bằng bay mãi không nghỉ.
Phải chăng chim Bằng là Bằng quận công, gặp thời nhứ gió
bay cao. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ Hoàng Đình Bảo, khi Bảo
bị kiêu binh giết, trốn vào Nam phò Tây Sơn, đem quân ra Bắc
diệt Trịnh thao túng quyền hành Bắc Hà rồi bị tướng Tây
Sơn là Vũ Văn Nhậm giết.. Tuy nhiên tình hình lúc Nguyễn
Du làm bài này là lúc Gia Long liên tiếp thắng nhiều trận
lớn từ Gia Định đang đánh tới, Bình Thuận, Diên Khánh
Nha Trang. Một sân mưa đọng kiến bò cao, xã hội đầy những
kẻ thấp kém bất tài thừa cơ nước lụt bò lên cao. Nguyễn
Du ám chỉ quân Tây Sơn thời mạt vận chăng ? Khác với anh
Nguyễn Nể phò nhà Tây Sơn, được vua Quang Trung trọng dụng,
ưu đãi, hai lần được đi sứ, được giao cho trấn đóng
Thành Bình Định, quê hương nhà vua, được dâng sách, dạy
vua đọc hàng ngày và thảo chiếu biểu cho Vua Cảnh Thịnh.
Nguyễn Du theo Gia Long và khinh miệt Tây Sơn, khi cho Tây Sơn
là kiến, khi là sâu trùng.(Cóc nhái quần bếp vắng, Sâu trùng
bò mé ngoài, bài Bất Mị) Dòng dõi nho gia, chiếc chăn xanh
vật cũ, anh vẫn giữ mãi, giấy rách giữ lấy lề, giữ thanh
danh ông cha mình. Tóc bạc rồi, tài năng chí khí mình như
thế mà chưa làm nên được việc gì thật quái lạ. Bệnh
tái phái, anh đang lo chạy chữa nên chậm thơ phúc đáp thơ
em.
Chú thích: |
II .10
Xuân Hương lại gửi cho Nguyễn Du một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sư.:. Ngọn gió Tây đêm qua mang lạnh về, dậu cúc dìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi nặng mặt nước sông mờ mịt, mưa dứt, trơ trọi một đám mây núi như có ai vẽ đường nét mi. Sen tàn cuối hạ còn lưu lại một chút hương mùa xuân cũ. Chim hót có thấu chăng cõi lòng mình,mỗi lời còn đọng mối tình thương nhớ quê. Trong thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, gió Tây không chỉ là gió Lào từ hướng Tây, mà là quân Tây Sơn ra Bắc, do đó ta có thể đọc một cách khác những ẩn ý trong bài thơ tả cảnh để nói lên tình hình chính trị đương thời. Quân Tây Sơn ra Bắc làm cho tình hình đìu hiu. Cuộc chiến đang diễn ra trong Nam với quân Chúa Nguyễn, tình hình vẫn còn mờ mịt. Nay chỉ còn một mình Vua Tây Sơn nơi đất Bắc, triều đại nhà Lê suy tàn nhưng lòng người cũng còn nhớ đến. Có ai thấu chăng lòng mình còn nhớ đến quê hương.
|
II .11
Nguyễn Du lại viết một bài thơ Thu nhật ký hứng, mở đầu bằng chữ Tây Phong đáp lại bài thơ Thu nhật tức sự của Hồ Xuân Hương.. Gió Tây mới đến, anh vẫn chưa về mà đã thấy khí trời lạnh lắm. Non sông nước cũ ngắm trông buổi chiều tà. Dù có xa em thân thế mặc như đám mây trôi nổi. Giật mình sợ cái cảnh già đến, đêm qua tiếng gió thu ở đâu nổi lên. Cười mình đầu bạc mà còn vụng thu xếp, đầy sân. Ta đọc lại bài thơ bằng hậu ý, Nguyễn Du tâm sự: Vì Tây Sơn ra Bắc nên chàng chưa về Thăng Long, không khí chính trị làm cho lòng dạ tái tê. Nhìn non nước cũ nhà Lê thời vận đã tàn, ở quê mình mà cũng như quê người, thân phận tha hương vẫn như đám mây trôi nỗi (khóc cười theo thời thế, im lặng giữ thân) Sợ rằng tuổi ngày một cao mà chưa làm nên việc gì, Đêm trước có nghe gió thu, từ phương Nam (Lạy trời cho có gió Nồm, để thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra) mọi người đều hay biết. .Tự trách mình bạc đầu còn vụng tính, nhìn lá vàng rơi rụng đầu hè.
Chú thích: |
II. 12
Thời gian xa cách thấm thoát đã hai năm. Nguyễn Du vẫn biền biệt nơi Hồng Lĩnh. Mẹ Xuân Hương thúc ép nàng lấy chồng, Có anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, con cụ Lang, cậy người mai mối. Nhân có người về Hà Tỉnh. Hồ Xuân Hương gửi thơ cấp báo: Vài hàng viết thư gửi chàng mà chạnh lòng nước mắt rơi, tưởng rằng thức suốt năm canh ánh trăng vẫn còn đó, tưởng rằng em (nguyệt) có thể chờ đợi anh lâu hơn, nhìn lá nhuộm sương mai buổi sớm mà lòng thẹn (vì đã hẹn với chàng), màu sương khói chỉ làm rộn ràng nỗi buồn, bước ra ngoài nhà thẩn thơ trước gió, xa xa tiếng địch ai thổi chói tai (lời anh Lang xóm Tây theo ve vản nàng), muốn hỏi trăng già sao khe khắc với tình duyên đôi ta, trêu nhau làm chi mà xe mối tơ không trọn vẹn để đôi ta xa nhau. Phạm Đình Hổ đã chứng kiến, việc mẹ gã Xuân Hương cho anh thầy Lang, có lẽ cũng là học trò cụ Đồ Diễn, thư sinh ngày xưa không thi cử làm quan thì cũng hành nghề: Y, Lý, Bốc, Số, anh Lang không thi cử, trở về tiếp tục nghề nghiệp của cha. Bài Hoài Cổ. (Nhớ xưa) Phạm Đình Hổ viết về Xuân Hương, tôi dịch như sau: Năm xưa hoa đào nở, Em tôi học cài trâm. Năm nay hoa đào nở. Mẹ gả xóm Tây gần. Năm nay hoa đào nở, Gió xuân sao lạnh lùng. Em nhìn hoa mà khóc. Sầu vương nét mi cong. Năm nay hoa đào nở, Cỏ xuân mượt trời mơ. Bên hoa em cười nụ, Ngâm thành tự đề thơ.Phạm Đình Hổ là người ham học hỏi, thấy người tài là đến chơi, thấy nhà ai có nhiều sách hay thì đến đọc, thấy việc gì cũng ghi chép. Trong thơ văn ông, tôi khám phá, ông chứng kiến mối tình Xuân Hương với Nguyễn Du, với anh Thầy Lang, với Mai Sơn Phủ, và cho Xuân Hương mượn tiền để mở quán sách Phố Nam thành Thăng Long, cạnh đền Lý Quốc Sư và trường ông Nghè Phạm Quý Thích, sau khi Xuân Hương dứt tình với Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà. Xuân Hương không tự đề thơ, mà viết bài thơ cuối cùng cho Nguyễn Du. Họa nhân.. |
II. 13
Nguyễn Du phúc đáp bằng bài thơ Ký Mộng, mơ Xuân Hương, bỏ mẹ, bỏ lớp dạy trẻ , vượt đèo Tam Điệp đầy hổ báo, vượt Sông Lam lắm cá sấu, đường đi thật hiểm trở, vào Hồng Lĩnh thăm mình. Tỉnh dậy viết bài Ký mộng gửi Xuân Hương, nên năm 1813 khi tình duyên tan vỡ, đò đã qua mấy chuyến, trong bài Cảm Cựu Khiêm Trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu, mừng chàng làm Chánh Sứ: Xuân Hương nhắc lại: Giấc mộng rồi ra nửa khắc không . Đáp lại các câu thơ: Mộng đến ngọn đèn sáng, mộng đi gió lạnh lùng, giai nhân nào thấy nữa, lòng ta rối tơ vương. Bài Ký mộng Nguyễn
Du viết: Thời gian như nước chảy suốt ngày đêm, người
đi xa mãi chưa về, bao năm rồi không gặp mặt nhau,biết làm
sao vơi hết nỗi nhớ thương. Nay trong mộng thấy rõ ràng,
nàng đến tìm ta nơi bến sông (Giang Đình). Vẻ mặt vẫn
như xưa, nhưng áo quần nàng không buồn chăm sóc. Thoạt tiên
nàng kể nỗi đau ốm, rồi than thở nỗi chờ mong những ngày
xa cách. Sụt sùi không nói hết lời, phản phất như cách
nhau một bức màn sa. Bình sinh vốn không biết đường. Mộng
hồn chẳng rõ thực hay hư. Núi Tam Điệp (Ba Dội) nhiều hổ
báo, sông Lam có lắm cá sấu. Đường đi hiểm trở khó khăn,
thân gái biết nhờ cậy ai ? Mộng đến ngọn đèn cô đơn
giọi sáng, Mộng tàn gió thổi lạnh lùng, Mỹ nhân không thấy
nữa, Lòng ta rối như tơ vương, Nhà trống ánh trăng nghiêng
soi vào, chiếu xuống tấm áo cô đơn của ta.. Ngày trước
ông Đào Duy Anh, trong cuốn Khào luận Truyện Kiều căn cứ
vào câu
Du tử hành vị quy, cho rằng Nguyễn Du nhớ vua
Lê Chiêu Thống. Các ông Lê Thước, Trương Chính trong thơ
Chữ Hán Nguyễn Du cho rằng nhớ một người bạn cũ, sau đó
lại cho rằng nhớ người vợ trước em Đoàn Nguyễn Tuấn.
Riêng tôi, Nguyễn Du không gọi là hiền thê, vợ hay bạn hay
vua mà gọi là mỹ nhân, Mỹ nhân đó chính là Xuân Hương
Hồ Phi Mai., lúc đó Nguyễn Du còn cô đơn chưa vợ. Ba mươi
tuổi Nguyễn Du mới về Quỳnh Hài cưới vợ, lúc ở Hồng
Lĩnh chỉ ở một mình bếp lạnh hoang vắng.
Chú thích: |
II .14
Sau khi gửi bài thơ này cho Hồ Xuân Hương năm 1795.Hồ Xuân Hương hiểu mối tình mình chỉ là giấc mộng. Nguyễn Du thôi làm Hồng Sơn Liệp Hộ mà làm Nam Hải Điếu Đồ, đi câu cá biển Nam Hải. Tâm sự Nguyễn Du lúc này trong bài Tạp thi I viết: Bạc đầu tráng sĩ ngửng trời than, Dựng nghiệp mưu sinh thảy lỡ làng, Thu Cúc, Xuân Lan thành mộng ảo. Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh.. Nguyễn Du cho rằng chuyện tình của mình với cô Cúc làng Trường Lưu hay với Xuân Hương làng Nghi Tàm đều đã thành mộng ảo.Về Hồng Lĩnh, Nguyễn Du tâm sự với người bạn cũ Thực Đình (bút hiệu có nghĩa là người ăn ở đình làng) Họp bạn khó tìm người mắt biếc. Sau vụ khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, người sống sót chẳng ai dám tỏ một thái độ gì. Do đó Nguyễn Du không thể ở lại, dạy học, cũng không thể tìm ra thủ hạ, do đó, tôi bác bỏ đoạn gia phả Nguyễn Tiên Điền chép: Nguyễn Du từ Hà Tỉnh dẫn thủ hạ mang quân lương ra tiếp rước Vua Gia Long. Và được đưa ra Bắc phong tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam. Trên bước đường tìm mánh mung vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, có lẽ Nguyễn Du đã rơi vào bẫy của công an biên phòng của Hiệp Trấn Hà Tĩnh Nguyễn Văn Thận, nên thay vì vào Khánh Hoà, Nguyễn Du bị chở thẳng vào tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn thân với Nguyễn Nể, và tài thơ văn Nguyễn Du nên chỉ cho học tập cải tạo sơ sơ mười tuần (ba tháng) trong . Bài Cảm Hứng trong tù Nguyễn Du cho rằng nổi lòng mình không ai biết: Tâm sự chút lòng, ai biết tỏ, Như sông Quế sâu dưới non Hồng. Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, vua Gia Long tiến đánh, Thận thua trận chạy ra Thanh Hóa và bị giết ở đó. Tin tức Nguyễn Du bị tù đã ra tới Thăng Long. Hồ Phi Mai lên đường về nhà chồng anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du sau khi ra tù , ban đêm Nguyễn Du đã đi bộ trốn ra Thăng Long bài Dạ hành: Trăng xế biển Nam ngàn dậm chiếu, Đường xa gió lộng một người trông. Đêm đen mờ mịt bao giờ sáng, Đầu bạc mà còn vụng dấu thân. Trên đường đi Nguyễn Du phải đi ăn xin: Bài Khuất Thực, Nguyễn Du viết: Chống gươm ngạo nghễ thét trời xanh, Ba chục năm trong bùn hôi tanh, Chữ nghĩa ích gì cho cuộc sống, nào ngờ đói rách người thương tâm. Đến Thăng Long Nguyễn Du đến một quán khách quen biết bên bờ Hồ Tây, chủ quán cho hay Xuân Hương Hồ Phi Mai đã đi lấy chồng, anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Chủ quán mời một bình trà, Nguyễn Du uống bao nhiêu lần, không tiền nên chỉ xin nước sôi uống trà lạt, ngồi viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên. Bài thơ oán trách Hồ Xuân Hương thậm tệ, nhưng nàng vẫn trân trọng lưu trong tập thơ Lưu Hương ký. Đã giao du với nhau mấy năm tròn, thề thốt tình thâm giao xe, nón mãi mãi còn.. Xe nón do chữ Xạ lạp theo sách Phong thổ ký, phong tục nước Việt thuần phác. Trong buổi sơ giao, hai bên làm lễ kết nghĩa thường có lời thề: Anh cỡi xe, tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái chào tôi., anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau tôi sẽ xuống ngựa chào anh.. Thơ Khổng Bình Trọng: Việc đời biến đổi khôn lường, chớ vì cởi xe mà khinh kẻ đội nón. Vì thế tình thân là xạ lạp chi giao, mối giao tình xe nón.. Không biết tại lòng nàng tham giàu sang mà thay dạ đổi lòng, lòng đen tựa mực đi lấy chồng thầy thuốc, còn tôi học tập cải tạo mới ra, tình tôi vẫn thắm như son, một lòng yêu nàng. Tai tôi chưa quên lời vàng ngọc của nàng, nàng có mắt hãy xem tôi làm nên sự nghiệp với nước non. Chớ trách chúa xuân, vì sợ chờ đợi tôi mà mỏi mệt sợ lỡ thì. Tình nàng sớm mận tối đào như thế có xứng đáng dòng dõi con nhà quyền quí chăng. ? Còn có bài thơ trách móc nào đau đớn hơn. Chí Hiên tặng I |
II .15
Bài Chí Hiên tặng II. Nguyễn Du không trách móc nữa mà bày tỏ lòng mình. Rủi may nào xá gì, nghĩ rằng cùng tắc thông, thông tắc biến, biến tắc hóa theo Kinh Dịch.. Ra Bắc phen này (1796) mong làm nổi việc, Nghĩ lại việc vào Nam (1794) cũng hoài công, Hà Tỉnh chẳng ai theo, chẳng thể lập cứ địa chống Tây Sơn, cũng chẳng thể vượt biển vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh.. Bạn thơ cũ nay đâu, ngồi uống trà một mình, uống bao nhiêu bình nước rồi ấm trà đã nhạt. Quán trọ đêm qua năm canh không ngủ được vì manh áo quá mong manh, trời đã vào lập đông.. Trông ra sông hồ mù mịt sương khói từ biển thổi vào.Người xưa Cổ Nguyệt đường lòng như tấm gương trong nào thấy đâu? Chí Hiên tặng II.Nguyễn Du tìm đến nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, bên bờ sông Nhị, Đoàn đang làm quan Tây Sơn, nhà cao cửa rộng: Trên bờ sông Nhị nhà chen gần, Đã chiếm cả thành hết cảnh xuân, Cầu gác Đông Tây cao ngất dựng. Chẳng kém gì các biệt thự các vị quan ngày nay. Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái út, và giao cho gia trang tại Quỳnh Hải năm 1797. Từ đây Mùa Xuân Quỳnh Hải, sau khi góc biển chân trời ba chục tuổi, Nguyễn Du mới biết đến hạnh phúc: Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, Bao giờ trăng chẳng nhạt thuyền quyên, Một trời xuân hứng nhà ai lạc. Muôn dậm Quỳnh Châu nguyệt sáng ngần. Ở đây Nguyễn Du chấm dứt cuộc đời Mười năm gió bụi có vợ con, dạy học, dạy văn và võ, hoàn tất Truyện Kiều. Năm năm Quỳnh Hải (1797-1802) Nguyễn Du đã giàu có, nên khi Vua Gia Long kéo quân ra đất Bắc đánh bắt vua Tây Sơn, Cảnh Thịnh. Nguyễn Du từ Quỳnh Hải dẫn thủ hạ, học trò và tráng đinh Quỳnh Hải, đem theo lương thực, ngựa ,bò, heo dâng sớ đón rước nhà vua. Đến Phù Dung trấn Sơn Nam thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay cho làm tri huyện Phù Dung. Sự kiện này tương tự như Phi Tử thời Chiến Quốc, người đất Phù Ngưu dâng ngựa lên Vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung nước phụ chư hầu. Từ đó Nguyễn Du có tên Phi Tử, Nguyễn Hành trong Minh Quyên thi tập bài Đi săn có nhắc đến bút hiệu này. |
III Độc Tiểu Thanh ký bài thơ Nguyễn Du gửi Hồ Xuân Hương. |
III .1
Nhờ ba năm lưu lạc (1786-1799) thành nhà sư Chí Hiên đi muôn dậm chu du Trung Quốc, Nguyễn Du nói thạo tiếng Trung Quốc, nên khi ra làm quan được mấy tháng từ Tri huyện Phù Dung, Nguyễn Du được thăng lên Tri phủ Trường Tín đặc trách tiếp sứ Thanh sang phong vương vua Gia Long. (Nguyễn Án được bổ làm tri huyện thay Nguyễn Du ở Phù Dung).. Đường công danh thăng tiến, nhưng người vợ họ Đoàn qua bốn lần sanh, chỉ để lại một con Nguyễn Tứ và qua đời.Mùa thu năm 1804, Nguyễn Du xin nghĩ bệnh một tháng. Từ Thường Tín, Nguyễn Du về thăm lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, đến nơi thì vườn cảnh đã hoang vu thiếu bàn tay chăm sóc của Hồ Phi Mai. Từ khi lấy anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, chẳng bao lâu anh thầy Lang mất, nàng lại trở về với mẹ, Cổ Nguyệt đường dạy học, rồi yêu Mai Sơn Phủ, mối tình để lại những bài thơ nồng nàn thắm thiết, thề thốt.. trong Lưu Hương ký. Mai Sơn Phủ cũng người ở Vinh (Vịnh Phố) trở về quê để cậy cha mẹ cưới hỏi, chàng về quê thì biệt tăm trong chiến tranh, trong trận đánh cuối cùng vua Gia Long và Tây Sơn. Hồ Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Phú thì gặp một học trò cũ của cha, là Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà., Xuân Hương nhận làm lẽ, nhưng vợ cả ghen tuông, nàng đang đau ốm, có thai 6 tháng, thân phận như nàng Tiểu Thanh. Bên song cửa Cổ
Nguyệt đường, Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh ký gửi
Xuân Hương Hồ Phi Mai.. Vườn cảnh Cổ Nguyệt đường nơi
Tây Hồ đã hoang vu vì thiếu bàn tay chăm sóc của nàng, Son
phấn có thần dù chôn vẫn còn hận. Văn chương vô mệnh
dù đốt cháy vẫn còn dư âm. Mối hờn xưa nay chỉ có biết
hỏi trời, vì đâu những người phong lưu tài sắc lại có
cái án oan nghiệt như thế. Ba trăm năm lẽ nữa, kể từ nàng
Tiểu Thanh đến nay, ba trăm năm lẽ sao ai sẽ khóc nàng Xuân
Hương Hồ Phi Mai. Hai chữ tố như trong bài này tra tự điển
Thiều Chửu: Tố là tơ trắng, nghĩa bóng là người có phẩm
hạnh cao khiết, như là như cũ, như vậy, giống như. Nghĩa
hai câu cuối là: không biết rồi đây ba trăm năm lẽ nữa,
ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.
Chú thích: |
III .2
Sau khi nhận được bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương dứt khoát dứt tình với Tổng Cóc. Bài thơ làm nàng thức tỉnh, nàng không thể nào tủi buồn, uất hận vì phận làm lẽ mà chết như nàng Tiểu Thanh. Không thể kéo dài cuộc sống: Cầm bằng làm mướn, mướn không công. Chịu đấm ăn xôi, xôi lại hẩm vì Tổng Cóc làm tình như chuộc vọc: Tiếc dĩa hồng ngâm cho chuộc vọc, Một tháng đôi lần có cũng không. Chàng Cóc ơi, Chàng Cóc ơi, thiếp bén duyên với chàng thế là đủ rồi. Thiếp xin dứt tình với chàng từ đây như nòng nọc đứt đuôi. Dù chàng có cho thiếp nghìn vàng, thiếp cũng như con cóc bị bôi vôi không bao giờ trở lại với chàng. . Cóc hay vào nhà trốn vào xó bếp hay gầm giường, đuổi đi, hay bắt bỏ ra xa cũng quay đầu trở lại, chỉ có bôi vôi vào đầu là đi biệt luôn không dám trở lại nữa. Giã từ Tổng CócHồ Xuân Hương, trở về Cổ Nguyệt đường, dù mang thai 6 tháng, sợ dư luận dị nghị, nàng ra phố Nam, mở tiệm bán sách, bút giấy mực, cạnh trường ông nghè Phạm Quý Thích gần đền Lý Quốc Sư. Mượn tiền Phạm Đình Hổ và bè bạn, Xuân Hương đã mở quán sách này. Tốn Phong đến thăm Xuân Hương sau hai lần hỏng thi khoa 1806 và 1813. Tốn Phong đến gặp Xuân Hương tại hiệu sách, sau khi nàng đã sinh con: Mai lạnh vẫn thường than nỗi khổ, Chốn dời Mai mới nở thêm cành.(bài 15) Tiếc thay đứa con gái mất sớm, nàng không nuôi được. Năm ấy nàng 35 tuổi, sắc đẹp mặn mà làm tốn phong ca tụng tít trời xanh. Quán sách nàng là nơi các học trò ông nghè Phạm Quý Thích lui tới, để ngắm bà chị. Trong đám học trò thường đến hiệu sách của nàng có cậu bé lên tám bị mắng là: Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa, có lẽ là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu về sau sẽ cùng Cao Bá Quát nổi tiếng: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. |
III .3
Xuân Hương trở lại Cổ Nguyệt đường bên Hồ Tây, Nguyễn Du về quê một tháng, sau đó được lệnh vào Phú Xuân thăng Đông Các học sĩ hàm ngũ phẩm, tước Du Đức Hầu, chức vụ dâng sách cho vua đọc mỗi ngày, và soạn thảo chiếu biểu cho vua. Gia Long Hồ Xuân Hương
viết bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu
Thanh ký của Nguyễn Du. Nguyễn Du viết:
Tây Hồ vườn cảnh
đã hoang vu. (Tây Hồ hoa uyển tẩn thành khư). Xuân Hương
trả lời: Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa. Em đã trở về,
em không chết như nàng Tiểu Thanh đâu ? Vườn cảnh có tay
em chăm sóc đã trở lại như xưa. Người đồng châu, cùng
quê Nghệ Tĩnh với em biết bao giờ trở lại. Nhật Tân đê
lở, như duyên em dù lỡ làng cũng còn lối vào. Chùa Trấn
Quốc rêu phong vẫn còn lưu lại bài thơ em viết ngày nào
đề thơ cùng chàng. Nơi vực Trâu vàng trăng lặng bóng. Kìa
non Phượng đất khói tuôn mờ những kỷ niệm đôi ta; Hồ
kia thăm thẳm sâu bao nhiêu cũng không bằng lòng em nhớ chàng.
Chơi Tây Hồ nhớ bạn |
IV . Hồ Xuân Hương gặp Nguyễn Du trên đường đi sứ năm 1813.. |
IV.1
Tháng 2 năm Quí Dậu 1813 Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Học Sĩ tước Du Đức Hầu, được chọn làm Chánh Sứ đi tuế cống triều nhà Thanh.Thiêm sự Bộ Lại Trần Văn Đại, Thiêm sự Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm Phó Sứ. Cống phẩm gồm: 200 lạng vàng, 1000 lạng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế; Sứ đoàn gồm 27 người, đi đến mỗi địa phương đều có bàn hương án và quan quân hộ tống. Đoàn đi từ Phú Xuân đến Vị Hoàng bằng thuyền và từ đó đi đường bộ. Theo gia phả con đầu là Nguyễn Tứ, 12 tuổi, có theo cha đi sứ. Tin này ra đến Thăng Long, Hồ Xuân Hương đã gửi đến Nguyễn Du bài thơ: Cảm cưụ kiêm trình Cần Chánh Học sĩ Nguyễn Hầu (Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân). Bài thơ này là một chứng cớ rõ ràng, không thể chối cải, nhưng thoạt đầu chẳng mấy ai tin. Ngay cả Xuân Diệu đọc bao nhiêu lần cứ viết: Xuân Hương phục người có tài hơn mình. Chẳng ai tin việc này, vì là thật nó kéo theo sự sụp đổ của một Hồ Xuân Hương dâm tục cả thế kỷ đã bàn tán và viết về nàng. Toàn bộ sách giáo khoa viết về Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du phải viết lại. Chàng đi sứ hoàng hoa, xa quê hương, nơi đất khách ngàn dậm lòng em muôn nghìn nỗi nhớ nhung. Mượn ai tới đó để gửi thơ cho chàng, nói rõ tấm lòng em. Chữ tình đôi ta ba năm trọn vẹn (1790-1793), nhưng rồi tình như mộng như bài thơ Ký Mộng chàng đã gửi cho em, tan mộng rồi chẳng còn thấy nhau. Em trộm mừng cho chàng từ ngày ra làm quan, xe ngựa đưa đón, có nhiều thê thiếp, nhiều mối duyên tình. Riêng phận em làm gái, phấn son càng tủi cho mình phận long đong. Biết chàng có bịn rịn vấn vương đến mối tình em, nơi Cổ Nguyệt đường năm canh em vẫn một mình phòng không thao thức. Cảm cựu kiêm trình |
IV.2
Sứ đoàn từ Phú Xuân đến Thạch Đình sông Hoàng Giang, một cuộc tiếp rước long trọng của quan Tổng Trấn Bắc Thành bấy giờ là Nguyễn Huỳnh Đức và quan Tổng Hiệp Trấn (Phó) Lê Chất. Xe ngựa, lính hầu đi chật đường đưa từ Thạch Đình về dinh Tuyên Vũ. Qua mỗi địa phương đều có bàn hương án quan huyện, trấn tiếp rước.. Thời gian Nguyễn Du đi sứ là 12 tháng rưỡi.. Từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, các quan địa phương Trung Quốc chu cấp nơi ăn ở, tiếp rước. Qua cửa Nam Quang đi Quế Lâm đến Võ Xương rồi đến Bắc Kinh. Tôi đã đi lại cuộc hành trình này năm 2009 để dịch toàn bộ các thơ Nguyễn Du trên đường đi sứ, so sánh thời nay và những điều Nguyễn Du mô tả; Hồ Xuân Hương đã đến sông Hoàng Giang chờ đợi từ nhiều ngày đầu tháng 4 năm Quý Dậu, gặp lại Nguyễn Du sau hai mươi năm từ biệt cũng bến sông này, nơi Thạch Đình từ biệt năm xưa.. Nhưng than ôi, Hồ Xuân Hương chỉ trông thấy Nguyễn Du từ xa, nào dám lại cầm tay tâm tình, vì chàng đường đường là một vị Chánh Sứ, quan trên trông xuống, người ta dòm vào, muôn cặp mắt phủ, huyện, lính lệ. Hồ Xuân Hương về nhà viết bài Hoàng giang ngộ hữu hỉ phú; Mừng gặp bạn trên sông Hoàng Giang: Từ độ em biết yêu lần đầu, như người con gái tuổi xuân vừa biết mùa xuân đầu tiên, mỗi khắc thời gian như vàng em lấy làm quí trọng. Đã hò hẹn nhau, lòng em nhớ cả kiếp sống mình. Tình đôi ta rất nặng em không quên dù hóa kiếp cả trăm thân. Dòng Tô Lịch chưa cạn, đôi ta vẫn còn duyên nợ.Sông Vị Hoàng còn đầy những giọt nước mắt ái ân em tiễn đưa chàng ngày nào, nhưng hôm nay chàng là quan Chánh Sứ, bao cặp mắt từ quan đến dân trông vào, em dù nồng ấm hay phai nhạt nào có dám thổ lộ. Nhưng lòng son em vẫn thương chàng, mười phân vẹn mười. Mừng gặp bạn ở sông Hoàng. |
IV.3
Các bài thơ này cất kỷ trong Lưu Hương Ký, Nguyễn Du nào đọc được.. Năm đó nàng 41 tuổi, đã trải qua những mối tình:sau mối tình với Nguyễn Du, Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, Mai Sơn Phủ rồi Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, Quan Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tĩnh, quan Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, và giờ đây người cuối cùng Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sẽ được thăng lên chức Tham Hiệp Trấn Yên Quảng.. Các mối tình này được người bạn Phạm Đình Hổ chứng kiến, và Tốn Phong Nham Giác Phu họ Phan Huy. viết tựa cho Lưu Hưong ký.Bài Hoài cựu là bài thơ tự than trách phận mình: Chữ tình ngang ngữa biết bao nhiêu, tình em đã trái ngang cùng chàng.Một chút duyên xưa lắm điều dang dỡ. Phận mình như bèo lạc hoa trôi, không trẻ lại như ngày xưa. Mối tình trăng hoa thêm tủi cái già đã đến. Vì ta tài tình mà mang nợ nên phải trả.. Nhìn phong cảnh nào vui đâu lòng đã gửi nhiều thơ vịnh Đưa đón gặp nhau mới biết tỏ tường bàn tay đấng tạo hóa. Đời mình như cánh hoa trôi trên dòng, mới thắm thía khi tin nước thủy triều đưa đẩy ngược dòng. Hoài cựuBiết rằng mối tình ngang trái, không còn gì nữa. Hồ Xuân Hương dứt khoát để yêu Tri phủ Tam Đái Vĩnh Tường Trần Phúc Hiển sau được thăng làm Tham Hiệp Trấn Yên Quảng. Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi; Xuân Hương góp thơ thành tập cuối cùng Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập.. Tập này bị phân tán thành nhiều mãnh. Tôi sẽ sắp xếp lại toàn bộ tập thơ vịnh cảnh này.. Một biến cố làm chấn động Tao đàn thời bấy giờ. Vì một bài thơ Nguyễn Văn Thuyên bị khép tội mưu phản, án chém. Cha nguyên Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, người nổi tiếng với bài Văn Tế Trận Vong Chiến Sĩ, phải tự tử năm 1816. Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, một tay cự phách trong làng văn thơ, người từng đánh chết Ngô Thời Nhiệm, đánh Phan Huy Ích trước Văn Miếu, bị bắt tội ẩn lậu ao đầm tội phải thắt cổ. Tiến Sĩ Vũ Trinh, anh rễ Nguyễn Du thầy dạy Nguyễn Văn Thuyên bị đày vào Quảng Nam 12 năm. Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, bạn thi ca của Hồ Xuân Hương, thi tướng tao đàn Cổ Nguyễ đường và cũng là bạn của Thuyên chết bất ngờ năm 1818, có lẽ tự tử.Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương, con người bạn Nguyễn Văn Thành đã chết trận, được ông xem như con nuôi che chỡ, bị bắt tội tham nhũng 700 quan tiền hối lộ, vì bắt buộc dân không được bỏ nghề đồng ruộng. Các vụ án xảy ra trên cùng một địa bàn cùng thời điểm có quan hệ chồng chéo với nhau, khiến cho mọi người sợ hải, cất dấu thơ văn. Đó là lý do thơ Hồ Xuân Hương bị cất dấu, gần như biến mất, nhưng danh tiếng nàng, một nhà thơ trữ tình, lãng mạn đã làm các bậc mày râu làm thơ gán ghép để thỏa lòng dâm dục. Tam Nguyên Vị Xuyên, Trần Bích San bốn mươi hai năm sau, trong Xuân Đường đàm thoại, làm hai bài phú viếng Hồ Xuân Hương thay cho Nguyễn Du và Phạm Quý Thích, đã tiết lộ tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du có thể viết nên thiên tình sử. Sau khi chồng bị tử hình, nàng có mặt trong buổi hành hình khóc cười điên dại.: Giọt sương dưới chiếu chau mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm miệng cười.. Hồ Xuân Hương đi tu núi Yên Tử, rồi trở về Cổ Nguyệt đường vài năm sau cũng mất, bên cạnh nàng có gia đình Tử Minh: không ruột nhưng mà thương quá ruột, có hai người con trai, và học trò nàng có cô Nguyễn Thị Hinh sau trở thành Bà huyện Thanh Quan. Mộ Hồ Xuân Hương nằm bên hồ sen trước chùa Kim Liên, Năm 1842 Tùng Thiện Vương theo anh là Vua Thiệu Trị ra Bắc, đến cúng dường chùa Kim Liên, dặn cô hầu gái đi hái sen Chớ trèo qua mộ Xuân Hương, Suối vàng còn hận tơ duyên lỡ làng.. Mực nước Hồ Tây đầu thế kỷ 20 vì đắp đê nên đã dâng cao một thước, ngôi mộ nàng nằm trong lòng nước. Tôi đến đến đây, trước chùa Kim Liên, ngồi trong mưa, nghe tiếng sóng Hồ Tây thét gọi: những người yêu văn chương Việt nam ở đâu, mà để nàng còn nằm trong lòng nước lạnh. Tôi mơ ước một ngày nào đó ngôi Cổ Nguyệt đường sẽ được dựng lại bên cạnh chùa Kim Liên, cho khách du lịch văn hóa đến thăm. Còn Nguyễn Du, tình
yêu với nàng như tơ trong cuống sen vấn vương hoài không
đứt. Trước khi nhắm mắt năm 1820 vì trận dịch (cả nước
hàng trăm ngàn người chết) nếu Nguyễn Du có ngâm câu: Bách
tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như.
Không phải Nguyễn Du muốn ai khóc mình đâu, mà Nguyễn Du
tiếc thương người con gái tên Hồ Phi Mai, hồng nhan như bạc
mệnh, mong manh như một cành mai trước gió xuân.
|
TS
Phạm Trọng Chánh
Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V; Sorbonne. tác giả: Hồ Xuân Hương, nàng là ai ? Khuê Văn Paris xb 2000 Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê văn Paris xb.2011 Liên lạc: phamtrongchanh@free.fr |
|