Laiquangnam
giới thiệu thi nhân tráng sĩ Đặng Dung
|
Theo truyền thuyết dân
gian của dân tộc ta, tương truyền rằng cái chết của người
anh hùng tráng sĩ Đặng Dung đã làm động lòng trời đất.
Ông được Trời rước về phong thần cai quản cung trăng.
Rõ ràng bên mõm đá trên chiếc đĩa vàng vằng vặc treo giữa
trời lộng gió kia, có muôn ngàn ngôi sao lóe sáng vây quanh
kia, có một người tráng sĩ nước Đại Việt đang ngồi mài
gươm, không sao lầm được trong ý đôi mắt người Việt
rải ra khắp thế gian hiện nay. Cạnh họ Ai đó ngâm khẻ
Quốc thù vị báo
đầu tiên bạch
Thù trả chưa xong
đầu đã bạc,
hay Quốc thù canh cánh
đầu tiên bạc!
....thế sự du du...,thời lai ,đồ điếu.... ,vận khứ anh hùng , xoay trục đất ,kéo ngân hà, mài kiếm long tuyền ...bao kỷ độ? ,và thù nước chưa xong...đầu đã bạc trước..ngàn năm mài kiếm dưới ánh trăng mờ ...... . Ngôn từ trong bài ca với âm "A " vui và phấn khích sao mà sao vẫn làm lòng người Việt ray rức rối bời vì vận nước. Họ nhận ra ngay người đồng hương mình. Đi xa gặp đồng hương đã vui, gặp người có cùng nỗi niềm tâm trạng thì có gì hạnh phúc cho họ hơn.Tuyệt tác là vậy. Cầu nối vô tận hiện nay của bài Cảm Hoài, nguyên tác của thi nhân tráng sĩ Đặng Dung khiến cho cộng đồng Việt chúng ta xít lại gần nhau hơn để cùng sưởi ấm cho nhau phát xuất từ tấm lòng của người anh hùng vị quốc vong thân . Xưa nay đối với Người Việt, trăng là chứng nhân, trăng là người bạn tâm tình nhất là lúc nửa đêm thức giấc. Đối với lớp người xưa, đôi khi họ ngâm đôi câu thơ Lý Bạch 舉頭望明月 , Cử
đầu vọng minh nguyệt
Ngẩng đầu trăng
vãi trắng trời ,
Một khi trăng còn treo trên trời, ngàn sao sáng còn vây quanh lấy nó, ngày đó con dân nước Việt cho dù họ cách xa ngàn dặm cũng cùng một nỗi niềm như nhau. Họ ngước nhìn lên giữa đĩa vàng sáng rực, họ luôn thấy người anh hùng tráng sĩ kính yêu Đặng Dung của mình vẫn còn đang ngồi đó mà mê mãi mài thanh gươm báu Thù trả chưa xong
đầu đã bạc,
"Người nay không thấy thời xa xưa của trăng, nhưng Trăng ngày nay từng chiếu tỏ rạng người thời xưa"( ý thơ LB). Và dấu ấn Người xưa đã được trăng vàng khắc ghi rõ mồn một trên bề mặt mình ."Người nay không thấy trăng xưa, Người xưa gươm sắc đang mài trăng nay". Là người Việt hiện nay cho dù bạn đang ở bất cứ nơi nào đó trên trái đất này, tuổi đời tuy có khác nhau, sức học có khác nhau, giới tính tuy có khác nhau, điều kiện sống tuy có khác nhau, thẩy đều đôi lần mượn một trong bốn cặp câu của bài Cảm hoài để tự ru mình trong niềm trăn trở, nghĩ về quê hương đất nước. Bởi thế, vào những đêm trăng tròn tại quê người, bạn thấy ai đó đang thơ thẩn, bước đi chầm chậm, ngước nhìn trời, rồi cúi đầu xuống đất như hoài niệm một lời trăn trở của ai đó, bạn hiền không cần nghe tiếng nói của họ, 100 phần 100 người ấy hẳn là một người Việt tha hương. Cảm hoài của Đặng Dung là bài đệ nhất thi trong dòng thất ngôn bát cú luật thi .Trác tuyệt là ở đó. Nhớ xưa,
Khi Giản định Đế vì một phút u mê mà giết người anh hùng Đặng Tất ( cha của tráng sĩ Đặng Dung) và danh tướng Nguyễn Cảnh Chân (cha của người anh hùng Nguyễn Cảnh Dị). Đặng Dung giận điên lên, ông muốn ăn tươi nuốt sống ngay lập tức vì vua này. Vậy mà ông cố dằn và tự nhủ, mình không thể giết Giản Định Đế, nóng vì thù nhà mà đan tâm làm hỏng đại cục!. Nếu giết thì cuộc kháng chiến lâm vào vòng bế tắc, lòng người thêm hoang mang ly tán, chấp nhận Giản Định Đế là hoàng thượng của mình thì lòng đau như cắt khi nhìn kẻ đã giết cha ta!. Nay mình là thuộc hạ. Một tiếng thở dài. Thế sự du du ... Cuối cùng ông tự quyết định lấy một cách hết sức khó khăn, bước một Ông sai tướng Trần Súy bắt Giản Định Đế từ Nghệ An mang về Thanh Hóa và lập Trần quí Khoách lên ngôi, hiệu là Trùng Quang Đế. Bước hai Đặt Giản định Đế lên làm thái thượng hoàng, để mình còn tránh mặt mỗi lúc nhớ cha già. Đặng Dung lúc này được phong làm Tư mã, ông cùng Nguyễn Cảnh Dị con của tướng Nguyễn Cảnh Chân ngày đêm lo việc phục quốc đánh trả quân thù. Nguyễn cảnh Dị, Trần Súy, Đặng Dung, Trần quý Khoách (tức Trùng Quang Đế ) có nhân cách cao đẹp, họ đã làm hết sức mình những gì mà họ có thể làm được cho dù vượt quá khả năng họ, laiquangnam đã đề cập ở phần một. Trong suốt hai chục năm
xâm lăng Đại Việt, Minh thành Tổ Vĩnh Lạc và Minh Tuyên
Tông xem như cơ hội ngàn vàng bởi hơn 500 năm qua, Đại Việt
hoàn toàn độc lập tách ra một lập một cõi trời riêng.
Nam quốc sơn hà nam đế cư Văn hóa Đại Việt bị tiêu hủy sạch!. ....thế sự du du....vì quân lực, vũ khí đâu còn!.Thôi thì hãy nhắc cho nhau nghe lời hịch tướng sĩ năm xưa của Hưng Đạo Đại Vương với các dòng sau mà ông còn nhớ trong ký ức: "Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; Có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. .... .......Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; Mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; Vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; Chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; Giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. ... " " Nay các ngươi Ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; Thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; ...." Nhờ vào hào khí năm xưa vẫn còn đọng lại đâu đó trong lòng người Đại Việt, nay có dịp sống dậy. Họ nhận ra ngay lỗi của mình và xông ra vác súng gươm xung trận . Bên ta, ai là người xông pha ra trận chống kẻ thù đều được gọi là anh hùng, là Kẻ Sĩ. Ngay từ lớp đệ thất, đệ lục thời VNCH, tức lớp 6,7 bây giờ, thế hệ tôi cũng được học qua câu trong Bích câu kỳ ngộ hai câu :"Anh hùng mấy mặt xưa nay ,Trăm năm nát với cỏ cây cũng là". Người nào đã từng nghe ,từng tắm gội thấm nhuần tính cách người xưa, phục cái khí khái của người xưa thì lòng yêu nước sẽ ăn sâu vào trong tim họ, đó là là chuyện thường tình. Xã hội nào sản sinh con người ấy. Danh sĩ Lý Tử Tấn đời Hồng Đức đã khen: "phi hào kiệt chi sĩ bất năng ", sau Dương Văn An trong sách "Ô châu cận lục" cũng khen tiếp, hai cha con họ Đặng:" Đương lúc vận nhà Trần sắp hết mà hai người đều tận tâm, tận lực đánh giặc cứu quốc, nâng vận nước khi sắp hết, chống nhà lớn lúc đã xiêu ....". Những con người như Nguyễn Cảnh Dị, Trần Súy, Đặng Dung, Trùng Quang Đế; họ xứng đáng được gọi là anh hùng, là kẽ sĩ "Chớ đem thành bại luận anh hùng" [Đào duy Từ] , và bạn hiền vốn là người yêu lịch sử chắc nhớ câu thơ gần đây nhất của anh hùng Nam Bộ Nguyễn hữu Huân ngâm vào lúc bi giặc Pháp hành hình Anh hùng mặc bả doanh
du luận
Anh hùng có sá chi
thua được
Hơn nhau là khí phách. Thất bại này không sao, nó sẽ nhóm lửa một mồi cho ngọn lửa sẽ bùng cháy dữ dội vào ngaỳ mai. Gian khổ phải qua tôi luyện .Nhờ vậy mà Bình Định Vương Lê Lợi đã thành công sau đó; nhưng nước ta cũng đã tan hoang rồi!. Văn
hóa Đại Việt đã bị nhiễm độc do Minh triều cấy vào
từ chính sách đào tạo bọn tay sai của họ, chính sách đào
tạo Sĩ (士), quan Bờm, trong
bài thằngbờmcócáiquạtmo. Chùa chiền thì nay đã thay da đổi
thịt, đã có một lớp tu sĩ Tàu mang giáo lý sặc mùi Đạo
giáo vào Phật giáo do Minh Vĩnh Lạc cấy vào. Dấu ấn này
nay còn ghi dấu trong lá bài có tên là Thầy, cửu Thầy hay
Thầy Chùa trong Bộ bàiChòi( hay bài tới Quảng nam) . Cửu
Thầy là anh có học gian ác bậc thứ 9, còn cao hơn cả anh
đại tham quan bậc tám là Bát Bồng,viên quan Bờm gom đến
cả bộ lư hương của dân chúng về nhà mình cho bằng được
mới thôi. Và anh cửu Thầy hay Thầy Chùa thì đầu đã mọc
sừng, mặt che quạt mo .
Nhớ xưa Thời lai đồ điếu
thành công dị
Đó là hai câu thơ trong căp (3,4) của bài Cảm Hoài. Là hai câu đúc kết trong phần luận anh hùng của người thi nhân tráng sĩ Đặng Dung. Là người con dân nước Đại Việt, là tráng sĩ, là thi nhân mang tâm hồn Việt, ông đã được thủ đắc một nền văn hóa thời Trần, thời sản sinh ra Đức Thánh Trần, Hưng Đạo Đại Vương lừng lẫy trong binh sử không những của Đại Việt mà còn trong binh sử thế giới nữa. Đặng Dung giữ chức tư mã, tổng chỉ huy cuộc kháng chiến chống Minh. Ông là con nhà nòi, dòng họ ông là dòng họ "ăn học" và khoa bảng. Muốn con mình trở thành tướng tài,người cha yêu của Đặng Dung dạy ông bổn phận trách nhiệm và tư cách của một người làm tướng nước Đại Việt, đã từng ngồi dạy ông từng trang sử, từng trang trong Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Đại Vương" rồi nay ông giở ra học tập,nghiền ngẫm ; "Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối,
Hưng Đạo Đại Vương
là vị thánh sống của dân tộc Đại Việt. Đọc dòng cổ
sử sau đây có thể Bạn hiền không sao cầm được nước
mắt. Một danh tướng phải luôn có một nhân cách lớn, giỏi
cả văn lẫn võ, biết thương yêu và tiếc thương xương máu
đồng bào mình. Quên thân vì đại cuộc. Cho dù Ngài là được
đồng bào mình nhất mực tôn thờ, kính thương gọi là Quốc
Phụ, vậy mà Ngài khi nhắm mắt lại có một lời dặn cực
kỳ đơn giản với người con rễ là danh tướng Phạm ngũ
Lão mà ngài rất mực thương yêu, truyện kể rằng, Ngài cầm
tay vị tướng họ Phạm này vào lúc lâm chung :
Hưng Đạo Đại Vương, đức Ngài không có lăng, ngày nay Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định đều nhận Đức Thánh Trần là người con ưu tú của quê hương mình. Nay người Việt muốn tìm đến lăng Ngài để trầm ngâm suy nghĩ lời khôn dại thì biết tìm ở đâu?. _Thì nó ở trong mỗi trái tim người Việt trên khắp thế gian này. Bạn thử đưa bàn tay phải lên ngực trái của mình, bạn sẽ gặp Ngài. Ngay tại Saigon, trên đường Võ thị Sáu, Q I,ngày nay, tức đường Hiền Vương ngày xưa, lăng Ngài ngày đêm vẫn luôn ấm áp vì hương khói do các người con Ngài thuộc hội Bắc Việt tương tế thay phiên nhau chăm sóc. Ngài sống vĩnh hằng trong lòng dân tộc Việt . Chính vì những giòng sử vàng như thế khiến Đặng Dung đánh giá rất thấp bọn họ, bọn Phàn Khoái và Hàn Tín. Dưới mắt ông và tiền nhân chúng ta sau này, bọn họ không có cửa để gọi họ là anh hùng. Họ chỉ là bọn "đồ điếu", là bọn bần tiện. Bạn hiền hãy tìm nghe âm " đồ điếu" của do người đất Bắc đọc bạn sẽ thấy rất đổi thâm trầm. Họ là những "Thằng Mặt Lì " ! Thân ái .
Vài bài dịch thơ quốc âm và chú thích *Theo nguyên tắc của
văn học sử thì bài thơ trên bắt buộc phải gọi là CẢM
HOÀI tên thương hiệu của nó, một danh tác mang dấu ấn
Đặng Dung.Tên Cảm Hoài đã được Lý Tử Tấn đời
vua Lê Thánh Tông chép lại và công bố trước tiên. Mấy trăm
năm sau trong
Xin hãy dành tên "THUẬT HOÀI" để tưởng nhớ về một danh tác tác khác của người anh hùng Phạm Ngũ Lão. Một trong các chiến công của Phạm tướng quân là cuộc vây bắt tên Việt gian do một người phụ nữ Việt xấu số chẳng may vơ phải một anh Tàu lái buôn vùng Quảng Ninh, người Quảng Đông sinh ra nó ,nó tên là PHẠM NHAN . Phiên âm Cảm hoài Thế sự du du nại
lão hà
01
02
Thế sự mang mang lại
tuổi già!
** Ý nói Ngài hồi tưởng lại kỷ niệm xưa. Câu chuyện về con voi trận sa lầy tại giòng sông Hóa giang thuôc tỉnh Thái Bình. Trong một lần xuất quân trong cuôc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ II, lúc vượt giòng sông HÓA, binh sĩ phải đưa con voi trận của Ngài xuống thuyền vượt sông. Chẳng may khi bước xuống thuyền, thuyền nghiêng, voi bị trựợt chân và bị sa lầy. Lại gặp lúc triều lên biết không cứu voi trận được ngài ra lệnh bỏ lại. Nhìn voi lần cuối, Ngài mà rơi nước mắt. Ngaỳ ấy dân còn mê tín, ai đó trong hàng binh sĩ xì xào " mới xuất quân mà gặp xui chắc là mình sẽ ....". Binh sĩ có phần hoang mang. Ngài buộc lòng phải ra lệnh chém nếu ai còn bàn bạc chuyện không may này. Lúc từ biệt voi, ngài cầm gươm chỉ xuống giòng sông Hóa mà thề rằng: "nếu không thắng được trận này thì ta thề không thể bao giờ quay lại khúc sông này". Binh sĩ biết đó là lời thề tử chiến cùng kẻ thù của một đại vương danh tướng nên họ dốc hết sức và quân ta đã thắng trận; tất cả Họ đều đã quay về. Ngài ra lệnh làm một con voi đá tại bến sông này để tưởng nhớ con vật thân yêu . . ***Phùng nhập kinh sứ của Sầm Than là một bài thơ tứ tuyệt có nội dung tạm tóm tắt như sau:" ...Mắt luôn ngóng nhìn về nơi phía xa mờ kia, ở đó có vườn nhà ta mờ ảo nằm dưới bóng mây. Lòng thương nhớ quê hương, nước mắt thấm đầm hai ống tay áo. Sáng nay ta vào kinh nhận nhiệm sở mới, gặp bạn đồng khoa nói mình sẽ nhậm chức tại quê nhà . Mừng quá nhưng trên lưng ngựa làm gì có giấy bút .Thôi thì ...và hai câu cuối là "Nay gặp bạn ,ta lại
không giấy bút ,
theo ý thơ Sầm Tham http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_samtham_phungnhapkinhsu.htm Tham khảo : 1-Sử gia TTK ,năm 1919, ghi là Trần quí Khoách. Sử gia Hànội gọi là Trần quí Khoáng.. 2-Laiquangnam ,Đường thi nửa chặng, bản thảo .laiquangnam chọn và dịch các bài thơ Đường hay nhất, chưa xuất bản 3-Trần trọng San dịch , Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, tủ sách ĐHTH TPHCM , 1990 4-Ngô Nguyên Phi, Những nhân vật Hán Sở ,nxb Lao Động 1994, 5-Sử ký Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học,2003, Chương Hoài Âm Hầu liệt truyện,trang 575,nxb Văn Học ,2003 6-Hịch tướng sĩ ,của Đức Thánh Trần Hưng Đạo, bản dịch của Ngô Tất Tố 7-Lý Tôn Ngô (1879-1944) người Thành Đô , ông viết Hậu Hắc Học ,tính đến năm 1990 sách ông đã bán trên 300000 bản .Ông là giáo sư ĐH tại Tứ Xuyên.có tham gia cách mạng Tân Hợi (1911) Người dịch là Nguyễn Trinh _Huy sinh , nxb VHTT,2000. 8-Hữu Tuấn ,Trang sách hồn nước, nxb trẻ ,1998 9-ĐVSK toàn thư 10-Trần Văn Giàu chủ biên, Lịch sử Việt nam, gồm 3 tập, NXB Trẻ,trang187 tập1 Tâm tình ,ghi vội , © Sau này trong lịch sử dân tộc ta Gia Long cũng hành xử y như thế. Hiền tài tan, quốc gia suy vong. Pháp vào Việt nam như chỗ không người với một đội quân vô cùng ít người Pháp đã chiến thắng. Người Việt mất nết chạy theo"bợ đít " làm Việt gian cho giặc. Điều này đậm nét hơn khi mà Gia long cam tâm đặt nền đội Hán lên đầu vương triều mình . 11- Laiquangnam giới thiệu thi nhân tráng sĩ ĐặngDung, http://chimviet.free.fr/vanco/laiquangnam/lqn_DangDung_CamHoai_P1_056.htm Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn : "Các người chớ
quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái
đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm
một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa.
Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các
việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là
họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt
ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta,
thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần
họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành
cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn
".
|