Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang Chủ ]
Thơ Chu Văn An
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Theo các chi tiết ghi trong cuốn Thơ Văn Lý Trần (nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978) thì: "Chu Văn An hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh, sinh năm nào chưa rõ. Ông người làng Văn Thôn, xã Quang Triệt, huyện Thanh Đàm. Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Học trò theo học rất đông. Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đều là học trò ông. Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho thái tử học. Đời Trần Dụ Tông (1341–1369), nhà vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng quyền, hà khắc, tham nhũng, Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất đời Trần Nghệ Tông, (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên thụy là Văn Trinh." .Được biết Chu Văn An từng có những tác phẩm như Thất trảm sớ, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng cho tới nay người ta mới chỉ sưu tầm được có mười hai bài thơ của ông chép trong Toàn Việt thi lục, còn hầu như bị thất lạc cả. Trong cuốn Thơ Văn Lý Trần nói trên có ghi lại nội dung mười hai bài thơ này kèm theo phần dịch nghĩa và dịch thơ. Chúng tôi dựa vào tài liệu này, ghi lại nội dung các bài thơ của Chu Văn An cùng phần dịch nghĩa, chọn ra được mười bài và đóng góp thêm mười bản dịch thơ mới như dưới đây.
Các bản dịch này đã được đăng rải rác trên các đặc san Chu Văn An tại Canada, tại Pháp và tại Miền Đông Hoa Kỳ, Texas cùng California. Nay chúng tôi tập hợp lại, có hiệu đính một phần nhỏ và thêm bài mới.
(1) LINH SƠN TẠP HỨNG
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thúy la kính lý vô nhân đáo,
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Tạp hứng ở Linh Sơn". Muôn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ. Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe. Trong lối cỏ biếc, không người đến. Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.)
TẠP HỨNG Ở LINH SƠN
Núi xanh giăng lớp tựa bình phong
Chiều nhạt in hình dưới suối trong
Cỏ biếc, lối mòn đâu bóng khách,
Vẳng nghe chim gọi, khói mông lung.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(2) THÔN NAM SƠN TIỂU KHỆ
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Tạm nghỉ ở núi thôn nam". Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam, bắc. Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời. Cõi Phật thanh u, cõi trần xa vời. Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.)
TẠM NGHỈ NÚI THÔN NAM
Thân nhàn nam bắc áng mây trôi,
Bên gối gió qua, nhẹ việc đời.
Cõi Phật thanh u, xa cõi tục
Trước sân hoa đỏ, tiếng oanh vui.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(3) THANH LƯƠNG GIANG
Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Sông Thanh Lương". Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi. Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một. Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh. Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.)
SÔNG THANH LƯƠNG
Sườn non giải nắng xế giăng ngang,
Từng cặp thuyền xuôi mái nhẹ nhàng.
Trên bến Thanh Lương buồn một bóng,
Ngắm triều dâng sóng, gió thênh thang.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(4) CUNG HỌA NGỰ CHẾ ĐỘNG CHƯƠNG
Đình vũ thai cầm vân yểm quan,
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan.
Bích đào hóa hạ hồn vô sự,
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Kính họa thơ vua".Hạc múa ở sân, mây che ngoài cửa. Nuốt hoa sương rồi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Dưới hoa bích đào lòng thanh thản. Thỉnh thoảng mượn ngọn gió đông quét trên đàn đá.)
KÍNH HỌA THƠ VUA
Trước sân hạc múa, mây bên song
Nhấp cạn hoa sương, sảng khoái lòng
Ngồi dưới bích đào, hồn tự tại
Quét trên đàn đá, gió mùa đông.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(5) NGUYỆT TỊCH BỘ
TIÊN DU SƠN TÙNG KÍNH
Hoãn hoãn bộ tùng đê,
Cô thôn đạm ái mê.
Triều hồi, giang địch quýnh,
Thiên khoát, thụ vân đê.
Túc điểu phiên thanh lộ,
Hàn ngư dược bích khê.
Xuy sinh hà xứ khứ,
Tịch mịch cố sơn tê (tây)?
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Đêm trăng dạo bước trên đường thông ở núi Tiên Du". Thong thả dạo bước trên con đê trồng thông. Xóm vắng mờ trong làn khói nhạt. Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng. Trời rộng, mây là là ngọn cây. Chim đêm cựa mình trong làn sương trong. Cá lạnh nhảy trong khe biếc. Người thổi sênh đi nơi đâu. Phía tây núi cũ vắng vẻ ?)
ĐÊM TRĂNG DẠO CHƠI
ĐƯỜNG THÔNG NÚI TIÊN DUDạo chơi thông mát bờ đê,
Mờ trong khói nhạt làng quê bềnh bồng.
Triều lui, sáo vẳng bên sông,
Trời cao bát ngát, mây lồng ngọn thông.
Chim xao xác dưới sương trong,
Vẫy vùng cá lội biếc dòng suối sâu.
Người thổi sênh vắng nơi đâu,
Phía tây núi cũ dâng sầu quạnh hiu?(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(6) XUÂN ĐÁN
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn.
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn
Bích mê vân sắc thiên như túy,
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Sáng mùa xuân". Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi. Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ. Màu biếc át cả sắc mây, trời như say. Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô. Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi. Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng. Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt. Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.)
SÁNG MÙA XUÂN
Nhà trên non vắng cảnh an nhàn
Phên cửa nghiêng che tiết lạnh sang
Mây biếc trời cao say chất ngất,
Hoa hồng sương sớm đượm miên man.
Thân như mây lẻ vương non thẳm
Lòng tựa giếng xưa lặng sóng vàng
Hương gỗ thông tan, trà cạn khói,
Chim bên suối hót mộng xuân tàn.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(7) SƠ HẠ
Sơn vũ liêu liêu trú mộng hồi,
Vi lương nhất tuyến khởi đình hoè.
Yến tầm cố lũy tương tương khứ,
Thiền yết tân thanh đoạn tục lai.
Điểm thủy khê liên vô tục thái
Xuất ly dã duẩn bất phàm tài.
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Đầu mùa hè". Nhà trên núi vắng vẻ, vừa tỉnh giấc mộng ban ngày. Một làn gió mát nhẹ thổi vào cây hoè trước sân. Chim én rủ nhau đi tìm tổ cũ. Ve sầu cất tiếng đầu mùa, lục tục bay về. Sen dưới khe điểm trên mặt nước không bợn chút phàm tục. Măng đồng nội trồi ra khỏi dậu, chẳng phải khí chất tầm thường. Phượng hoàng đậu cành ngô, lặng lẽ quá đến thành lười nhác. Cuốn sách nát để trên án, gió tự giở ra.)
ĐẦU MÙA HÈ
Chợt tỉnh giấc ngày nhà chốn cao,
Trước sân hoè rỡn gió lao xao.
Én tìm nơi cũ gom đàn lượn
Ve cất giọng vui vỗ cánh chao.
Dưới suối sen phô, hình thoát tục,
Đầu rào măng vượt, dáng thanh tao.
Phượng hoàng lặng biếng cành ngô đậu
Trên án sách xưa đón gió vào.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(8) VỌNG THÁI LĂNG
Tùng thu thâm tỏa nhật tương tịch.
Yên thảo như đài mê loạn thạch.
Ảm đạm thiên sơn phong cánh sầu,
Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
Dã điểu bất đề sơn tịch tịch.
Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
Bình vu vô tận xuân sinh bích.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Trông về Thái Lăng". Cây tùng cây thu khoá kín trời sắp về chiều. Cỏ non xanh rợn, như rêu che lấp những hòn đá ngả nghiêng. Ngàn non ảm đạm, gió thổi càng thêm buồn. Muôn thuở tiêu tan, mây không để lại dấu vết. Hoa bên suối sắp rụng, mưa lất phất. Chim ngoài đồng nội im tiếng, núi quạnh hiu. Mấy lần dùng dằng, đi rồi lại đi. Cỏ rậm bát ngát, sắc xuân xanh biếc.)
TRÔNG VỀ THÁI LĂNG
Thấp thoáng tùng thu bóng xế chiều,
Cỏ non phủ đá biếc màu rêu.
Gió vờn non thẳm thêm buồn bã,
Mây lắng trời xa để tịch liêu.
Bên suối hoa tàn mưa lất phất,
Ngoài đồng chim lặng núi đìu hiu.
Ngập ngừng mấy độ dời chân bước,
Xanh ngát cỏ xuân, sắc diễm kiều.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(9) GIANG ĐÌNH TÁC
Giang đình độc lập sổ quy chu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu.
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải liêu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảng tiễn phi âu.
Chu Văn An(Dịch nghĩa; "Làm thơ ở Giang Đình". Đứng một mình ở Giang Đình đếm thuyền về. Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi cảnh thu. Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt. Trông suốt trời chiều, màu biếc mênh mông. Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường. Tạm dạo chơi lang thang miền hồ hải. Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc. Thèm cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảnh sóng xanh.)
LÀM THƠ Ở GIANG ĐÌNH
Giang Đình một bóng đếm thuyền qua,
Gió lộng ghềnh thu sáo thiết tha.
Nắng xế, thơ tàn, hồng nhạt nhạt,
Trời chiều, cảnh vắng, biếc bao la.
Công danh lạc mộng đầy hư ảo,
Hồ biển rong chơi với cỏ hoa.
Đây đó lang thang đời tự tại,
Chập chùng sóng biếc bóng âu xa.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(10) MIẾT TRÌ
Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tĩnh tương y,
Ngư phù cổ chiểu long hà tại?
Vân mãn không sơn hạc bất quy!
Lão quế tùy phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thủy một tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
Chu Văn An(Dịch nghĩa: "Miết Trì". Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm. Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau. Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào? Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về! Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá. Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông. Tấc lòng này hẳn chưa nguội lạnh như tro đất. Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.)
MIẾT TRÌ
Trăng nước cầu bên giỡn bóng tà,
Trong hồ sen lặng, lá kề hoa,
Ao xưa cá lội, rồng đâu thấy?
Núi vắng mây giăng, hạc chẳng qua!
Đường đá gió thơm mùi quế thoảng,
Cửa thông nước đẫm lớp rêu pha.
Lòng đâu đã nguội như tro đất,
Nghe đến tiên hoàng lệ muốn sa.(Tâm Minh Ngô Tằng Giao dịch)
(Virginia, USA, tháng 7 năm 2004)
**********
[ Trở Về ]