-
Lúc
12 giờ 45, ngày 01 tháng 4 năm 2001, Trịnh Công Sơn đã ra đi.
Trái tim nhân ái và nhạy cảm ấy đã ngừng đập; bộ óc
đầy mỹ cảm và sáng tạo ấy đã thôi vận động. Anh đã
để lại cho bạn bè và những người hâm mĩ anh một nỗi
tiếc thương vô hạn. Một sự mất mát lớn, một khoảng
trống không gì bù đắp nỗi cho nền âm nhạc hiện đại
Việt Nam. Một nhạc sĩ nỗi tiếng cùng thời đã nhìn nhận
một cách vô tư rằng Trịnh Công Sơn là người viết tình
ca hay nhất thế kỷ của Việt Nam. Nói về sự ra đi của
anh, những người mến mộ còn ở lại cái cõi trần ai này
đã bày tỏ bằng nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Nhưng nói bằng cách gì và với ý nghĩa nào thì cũng không
thể làm vơi đi được nỗi đau thương và mất mát ấy. Rõ
ràng là có một sự biến mất về hình hài vật chất mà
cha mẹ anh đã tạo nên anh. Quy luật tự nhiên của vũ trụ
vô tình vốn hữu sinh thì hữu diệt, hữu hình thì hữu hoại.
Nhưng mà thật ra anh vẫn ở lại, ở lại mãi mãi với nền
âm nhạc, với nền văn minh và văn hóa nước nhà. Cả một
đời lao động sáng tạo cật lực anh đã góp được vào
trong sự nghiệp nghệ thuật chung của cả nước hơn 600 ca
khúc. Một sự nghiệp đồ sộ. Và đây chính là cái phương
tiện, cái quyền năng đã giúp anh chống lại định mệnh.
Cái định mệnh của đời người vốn khắc nghiệt và độc
ác đã chưa từng bao giờ cho phép ai sống đến tận cùng
niềm vui và nỗi khát vọng sống như chính mình mong muốn.
Đối với cộng đồng xã hội,
một khi anh nằm xuống, anh đã thanh thỏa hết mọi "trái khoản"
một cách sòng phẳng với trần gian. Một đời mình anh đã
làm hết mọi điều mà anh mong muốn, và đã ra đi đúng lúc.
Còn tất cả những gì mà anh đã để lại cuộc đời nó
sẽ cứ tồn tại một cách hiển nhiên và minh bạch. Không
có gì đáng trách và cũng không có gì phải hồ nghi cả.
Thiên tài ư? Anh đâu cần cái hư
danh ấy. Anh là anh, chính điều này mới lớn lao. Vã lại,
chính hậu thế vốn rộng lòng và trong sáng hơn đương thời
sẽ quyết định điều này. Nhưng dù gì thì gì, đấy vẫn
là hư danh. Cái hư danh khiến cho những con người đầy tham
vọng sẽ vật lộn, tranh giành nhau một cách đau khổ. Mà
thật ra chưa khi nào, dù một lần anh đã thầm ước mơ đến
cái tên gọi đầy sân hận đó.
Nhân cách của anh? Tôi sẽ trả
lời rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đầy nhân cách.
Còn lớn hay nhỏ ư? So với ai? - Người đời vốn hay chấp
về hình tướng, mà hình tướng thì thường làm cho con người
mê.
Tôi nói nhân cách của Trịnh Công
Sơn nó đầy đủ ở trong thái độ nghệ thuật của anh. Thái
độ nghệ thuật này luôn nhất quán ở trong sáng tạo nghệ
thuật của mình mà chưa hề khi nào vong thân hay thóai hóa
biến chất cho đến phút cuối cùng. Khẳng định về một
điều như thế đối với một người đang còn sống thật
khó. Nhưng đối với một người đã nằm xuống ta sẽ không
còn phải lo sợ rằng họ còn có thể tốt hay có thể xấu,
còn có thể đúng hay có thể sai, xứng đáng hoặc không xứng
đáng nữa.
Một con đường dẫn nhập vòng
quanh như vậy đối với tôi là cần thiết, để dọn đường
vào vấn đề mà tôi đã tự đặt ra cho mình: Trịnh Công
Sơn và nhạc phản chiến của anh. Trong quá trình trình bày
vấn đề này, tôi sẽ cố gắng làm toát ra cái tài năng và
nhân cách hiếm có đó nổi bật lên trên cái bối cảnh Việt
Nam máu và nước mắt, khói lửa và nổi kinh hoàng trong cuộc
chiến dai dẳng và khốc liệt thời bấy giờ. Một cuộc chiến
tranh mang tính tất yếu lịch sử của một dân tộc bị áp
bức; nhưng sự chọn lựa và quyết tâm ấy đã không ít đau
thương. Và Trịnh Công Sơn đã xuất hiện trong bối cảnh
đó như lương tâm của một con người mang trái tim nhân ái
nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt
của mình đối với quê hương dân tộc, dù thiếu vắng một
thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng
mình thì mình nói.
Tôi sẽ không nói đến những ca
khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn với tư cách một nhà
phê bình văn học về lời nhạc, cũng như không phải trong
tư cách của một nhà nghiên cứu âm nhạc đối với nghệ
thuật âm thanh của anh. Mà với tư cách của một người chứng,
sống cùng thời và từng sinh hoạt với anh, tôi sẽ nói về
thái độ dấn thân bằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong
công cuộc vận động hòa bình cho đất nước đầy tuyệt
vọng; nhưng cũng đầy ý nghĩa và giá trị nhân bản đó.
Nghĩa là nói về một Trịnh Công Sơn nghệ sĩ đích thực,
một con dân nước Việt mang tình yêu chân thực đối với
quê hương vào cuộc. Khẳng định anh trong ý nghĩa này là
khẳng định chính sự đóng góp của anh vào trong những giá
trị văn hóa, văn minh của cả nước. Một Việt Nam luôn xây
dựng trên nền tảng con người và hòa bình.
Thế nào là nhạc phản chiến, và
phản chiến như thế nào?
Phản chiến ở đây là bày tỏ
thái độ của mình không tán thành chiến tranh, và sự không
tán thành này có nghĩa là một sự đồng cảm, chia xẻ với
những con người đang phải gánh chịu những nỗi mất mát,
đau thương trong chiến tranh. Đồng cảm mà không đứng ở
ngoài, đứng ở một bên; mà đứng ở cái thế chung cùng
một phận, một định mệnh. Sơn không nhân danh một "isme"
nào cả; cũng như không chủ trương chống lại một "isme"
nào cả. Hoặc có chăng là anh nhân danh cái gọi là "humanisme",
xu hướng nhân bản. Mà thật ra cũng chỉ là một cách gọi
đấy thôi. Nói cho cùng, đó là tất cả những gì mình cảm
xúc, tất cả những gì vang vọng trong tâm khảm của mình
từ một thực tại máu xương như thế của đồng bào thì
mình nói ngay ra. Nói không do dự, nói như một lời khẩn báo.
Đỗ Phủ ngày xưa ở bên Tàu làm thơ bày tỏ sự xót thương
đối với hàng vạn con đỏ đang bị dìm trong máu lửa chiến
tranh mà người đời sau cho rằng ông có tinh thần chống chiến
tranh là vậy. Thật ra ông chỉ muốn nói lên niềm xúc động
sâu xa của mình đối với thời thế, mà ở bên sau cái nỗi
niềm này không tiềm chứa một ý thức, một tinh thần cơ
hội nào.
Tắt một câu, trong dòng nhạc phản
chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính
chính trị nào cả. Mà tất cả là làm theo mệnh lệnh của
con tim mình, một con tim thương đời, thương người, để
nói lên tiếng nói của con tim đó đối với quê hương, dân
tộc một cách trung thực và chân thành. Và một khi anh đã
vĩnh viễn nằm xuống yên nghỉ thì câu khẳng định này đã
trở nên hùng hồn hơn.
Ta sẽ thấy mệnh lệnh của trái
tim này đi xuyên suốt trong tất cả các sáng tác thuộc dòng
nhạc phản chiến này của anh. Trước hết ta có thể tạm
sơ lược về con đường sáng tác các ca khúc phản chiến
của Trịnh Công Sơn như sau:
- Ý thức phản chiến trong ca khúc
của Trịnh Công Sơn đã manh nha vào những năm 1965, 1966. Trong
giai đoạn này anh đã cho ra đời tập ca khúc Ca khúc Trịnh
Công Sơn (Thần thoại quê hương, tình yêu và thân phận) do
An Tiêm xuất bản 1966. Sau đó phát triển dần trong tập Ca
khúc da vàng vào cuối 1966 và đầu 1967, tập Kinh Việt Nam
năm 1968, tất cả đều do anh tự ấn hành lấy. Cùng với
những cuộc xuống đường rầm rộ của thanh niên, sinh viên,
học sinh ở đô thị miền nam Việt Nam chống Mỹ và chế
độ cũ đòi hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước,
anh đã cho xuất bản tập ca khúc Ta phải thấy mặt trời
vào năm 1970 (Tự ấn hành dưới cái tên Nhà xuất bản Nhân
Bản). Năm 1972, khi tình hình chiến sự ở miền nam Việt Nam
ngày càng leo thang đến độ khốc liệt nhất, anh đã cho ra
đời tiếp tập Phụ khúc da vàng (Tự ấn hành dưới cái
tên Nhà xuất bản Nhân Bản). Đây là tập cuối cùng của
dòng nhạc phản chiến của anh. Tổng kết tất cả gồm 5
tập, với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng
tác ngay trong những cuộc xuống đường cùng thanh niên, sinh
viên, học sinh Huế.
So với những tình khúc mà Trịnh
Công Sơn đã sáng tác được trong suốt cuộc đời mình cho
đến lúc qua đời, số lượng của những ca khúc phản chiến
tương đối ít. Nhưng chính những ca khúc này đã làm cho danh
tiếng của anh sáng lên một cách chói lọi. Phải nói là độc
sáng. Và chính trong cái vầng hào quang làm nền này, tình khúc
của Trịnh Công Sơn tiếp tục sáng giá cho đến hôm nay và
mai sau. Chính những ca khúc phản chiến thời bấy giờ đã
chắp cánh cho danh tiếng của anh bay ra khỏi biên giới Việt
Nam để đến với thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Nơi
xứ sở này anh đã từng có những "Đĩa Vàng". Và lưu danh
trong bộ tự điển Bách Khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays
du monde.
Thật vậy, vào những năm 58, 59,
61, 62, những tình khúc như Ướt mi, Thương một người,
Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ v.v... đã bắt đầu nổi
tiếng trong những phòng trà ca nhạc ở miền Nam. Nhưng phải
chờ đến những năm 65, 66, 67 khi tiếng hát của Trịnh Công
Sơn cất lên trong các giảng đường Đại Học Sài Gòn và
Huế, trước hàng ngàn sinh viên học sinh cuồng nhiệt, với
những ca khúc trong các tập Ca khúc Trịnh Công Sơn và Ca khúc
Da vàng, cái tên Trịnh Công Sơn đã trở thành một hiện tượng.
Hiện tượng Trịnh Công Sơn.
Những ca khúc phản chiến của Trịnh
Công Sơn được chép để chuyền tay, được in ra băng cassette,
hoặc băng từ loại lớn, còn gọi là băng Akai... Nghĩa là
mọi hình thức phổ biến, phương tiện phổ biến đều được
tận dụng. Người ta nghe nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn
trong quán cà phê, người ta nghe trong những cuộc sinh hoạt
tập thể của thanh niên, thậm chí người ta nghe trong khuê
phòng và nghe ở cả những tiền đồn heo hút...
Dàn trải trên nón một điệu Blue
buồn đau và uất nghẹn, với nhịp hát kể Recitativo, ca khúc
phản chiến của Trịnh Công Sơn vút lên:
-
"... Ôi chinh chiến đã mang đi bạn
bè
-
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên
đồi quê hương
-
còn có ai không còn người, ôi nhân
loại mặt trời
-
và em tôi này đôi môi xin thương
người
-
ôi nhân loại mặt trời trong tôi..."
(Xin mặt trời ngủ yên - ca khúc Trịnh
Công Sơn)
Và,
-
"...Giọt nước mắt thương con,
con ngủ mẹ mừng
-
Giọt nước mắt thương sông ấp
ủ rêu rong
-
Giọt nước mắt thương đất, đất
cằn cổi bao năm
-
Giọt nước mắt thương dân, dân
mình phận long đong"
(Nước mắt cho quê hương - Ca khúc
Trịnh Công Sơn)
Rồi,
"Mẹ ngồi ru con đong đưa võng
buồn năm qua tuổi mòn.
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình
buồn giọt lệ ăn năn. Giọt lệ ăn năn đưa con về trần
tủi nhục chung thân..."
(Ca dao mẹ - Ca khúc Trịnh Công Sơn)
Hay từ một hiện thực vừa mới
xảy ra trong thành phố:
"Ghế đá công viên dời ra đường
phố.
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ. Người già
co ro buồn nghe tiếng nổ. Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi..."
(Người già em bé- Ca khúc Trịnh
Công Sơn)
Và với Phúc âm buồn, Tuổi đá
buồn v..v... Tiếng hát Trịnh Công Sơn như một sợi dây vô
hình đã nhanh chóng nối kết những tâm trạng riêng, những
số phận riêng của người dân đô thị miền Nam vào trong
một tâm trạng chung, một số phận chung. Tâm trạng và số
phận này là gì? Đó là tâm trạng và số phận của những
con người Việt Nam đã từng bị lừa, họ là nạn nhân của
bạo lực vô minh, mà niềm tin và hy vọng của họ đã trải
qua bao lần bể dâu. Đối với họ, mọi khát vọng, mọi dự
phóng đều là hư vô. Họ đang vẫy vùng trong một cảnh sống
đầy máu xương, mất mát tang tóc của một cuộc chiến tranh
phi lý mà lối thoát chưa một lần thấy lóe sáng ở cuối
con đường hầm cuộc đời tăm tối đó.
Tôi cho rằng, bằng một khả năng
cảm nhận sắc bén bẩm sinh anh đã dễ dàng biến những cảm
nhận riêng của mình thành của chung. Bằng một phương cách
biểu hiện rất khéo do ở chỗ sử dụng những ẩn dụ, những
hình tượng rất mới, anh đã gây được những ấn tượng
mạnh cho người nghe, và đặc biệt khi cần phải đối kháng
với một thực tại mà anh không thể nào vãn hồi được,
anh dựng một thần thoại. Nhờ thế mà tiếng nói của anh
dễ dàng lọt vào lòng người, và dễ dàng được đồng cảm.
-
"Người nằm co như loài thú khi
mùa đông về
-
Người nằm yên không kêu than buốt
xương da mình
-
Từng tiếng người nhiều tiếng
người gọi hoài giữa đêm...
-
Người còn đó nhưng lời nói rơi
về chân đồi
-
Người ngồi đó nhưng trong tim máu
tuôn ra ngoài
-
Nhuộm đất này nhuộm cho hồng
hạt mầm trót vay."
(Phúc âm buồn - Ca khúc Trịnh Công
Sơn)
Bằng một định hướng, cũng như
một phương pháp sáng tác như đã được trình bày ở trên,
Trịnh Công Sơn đi vào giai đoạn "Ca khúc da vàng". Ở đây,
những cảm nhận về quê hương và thân phận đã trở nên
mãnh liệt hơn, quặn thắt hơn và đôi khi dẫn đến sự phẩn
nộ. Từ Ngày dài trên quê hương, Người con gái Việt Nam,
Đại bác ru đêm cho đến Tôi sẽ đi thăm, Tình ca người
mất trí, Hãy nói giùm tôi, Gia tài của mẹ... đã nói
lên điều đó.
Ta hãy nghe:
"Người nô lệ da vàng ngủ quên
ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ ngủ quên quên
đã bao năm ngủ quên không thấy quê hương.
Bao giờ
đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dỉn ta bao
giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do..."
(Đi tìm quê hương- Ca khúc Da vàng)
"Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm
tôi hãy thở giùm tôi thịt da này dành cho thù hận cho bạo
cường cho tham vọng của một lũ điên..."
(Hãy nói giùm tôi - Ca khúc Da vàng)
Tiếng hát đã tạo nên những hiệu
quả trong đời sống xã hội thật sự. Nó đã làm cho một
số không ít thanh niên nhìn ra cái bản chất phi nhân và tàn
bạo của cuộc chiến khiến họ đi đến hành động trốn
lính hay đào ngũ. Dưới con mắt của những người cầm quyền
thuộc chế độ cũ Sơn là một kẻ phá hoại tinh thần chiến
đấu của anh em binh sĩ.
Ở miền Nam lúc bấy giờ cường
độ của cuộc chiến càng lúc càng gia tăng. Người Mỹ ra
sức cũng cố chế độ cũ và đẩy mạnh cuộc chiến. Chiến
tranh càng lan tràn khắp nơi một cách khốc liệt. Năm 1968,
với cuộc tổng công kích xuân Mậu Thân, nhiều thành phố
ở trên khắp miền Nam đã trở thành bãi chiến trường. "Con
người trong tôi" của Trịnh Công Sơn lại tiếp tục lên tiếng
mỗi lúc một khẩn thiết hơn:
-
"Xác người nằm trôi sông phơi
trên ruộng đồng
-
Trên nóc nhà thành phố trên những
đường quanh co
-
Xác người nằm bơ vơ dưới mái
hiên chùa
-
Trên giáo đường thành phố trên
thềm nhà hoang vu..."
(Bài ca dành cho những xác người -
Ca khúc da vàng 2)
Và trong cái cảnh tượng trần gian
là một lò sát sinh đó, đã có những người mẹ, những người
chị đã lâm vào trong một trạng thái tâm thần bệnh lý:
"...Mẹ vỗ tay reo mừng chiến
tranh chị vỗ tay hoan hô hòa bình người vỗ tay cho thêm thù
hận người vỗ tay xa dần ăn năn."
(Hát trên những xác người - Ca
khúc da vàng 2)
Và sau đó nhiều năm, người dân
ở trong các thành phố miền Nam vẫn tiếp tục chịu đựng
những cuộc nỗ mìn, những trận pháo kích gây thương vong
không ít cho đám dân lành vô tội. Ngày ngày không dứt tiếng
súng tiếng bom. Và hằn đêm trong ánh hỏa châu vàng vọt ghê
rợn, người dân thành phố nín thở, nơm nớp đợi chờ những
điều không may có thể xảy đến cho mình. Mỗi ngày, từ
chiến tuyến những chiếc quan tài phủ cờ được đưa về
thành phố, trên đầu những trẻ mồ côi, những góa phụ,
khăn tang cứ bay như phướng.
Từ 1968 cho đến những năm 1969,
1970, 1971, thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó
về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Rồi tất cả lại
tắt ngấm. Người dân Việt khát khao hòa bình như kẻ đi
trong sa mạc khát đến cháy bỏng cổ họng mà ốc đảo xanh
tươi hiện ra trước mặt mình chỉ là những ảo ảnh. Cuộc
chiến khốc liệt cư tiếp diễn. Phong trào đấu tranh hòa
bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt. Đặt
biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh, bây giờ lập
trường đã kiên định: Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến.
Tôi, kẻ viết bài này, đã quyết định, đã chọn lựa đứng
vào phong trào đó. Nhưng chọn lựa nào cũng có những đau
đớn. Tôi phải đứng về phía dân tộc theo cách của tôi.
Để có hòa bình thì dân tộc phải có quyền tự quyết, mà
quyền tự quyết thì phải đấu tranh mà dành lấy chứ chẳng
ai cho. Nhưng càng đấu tranh thì càng chồng chất đau thương.
Những kẻ dễ quên thì dễ sống, còn tôi thì không thể quên
điều này. Và phải nói một cách thành thật rằng chính những
ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong những năm đầu
tiên đã đánh thức trong tôi tình tự dân tộc, sau đó thì
tôi chọn một thế đứng quyết liệt hơn, âu cũng là do tánh
khí riêng của mình. Nhưng về sau tôi vẫn thường tiếp tục
hát những ca khúc phản chiến của anh. Vì tôi thấy nó mang
lại cho đầu óc mình sự "mát mẻ", khi mà mình không thể
thường xuyên chịu đựng mãi một sự căng thẳng sắt máu.
Và đôi khi nó cũng khiến cho mình mơ mộng về một nền hòa
bình có thể thế này mà không phải thế kia... Đó là con
đường tự do đi đến hòa bình mà không phải đỗ máu. Tôi
sợ máu!
Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cực
đoan này thì sao? - Vẫn trung thành với con đường mà tự
anh đã vạch ra từ trước, anh tiếp tục đi, đi theo tiếng
gọi của dân tộc mà anh đã nghe thấy theo cách của mình.
Có khi anh đi một cách mạnh dạn hơn, và anh kêu gọi, anh
hô hào. Và tinh thần của anh, tùy mỗi hoàn cảnh khác nhau
mà hy vọng, hào hứng hay tuyệt vọng... hoặc ngược lại.
Kết quả là hai tập ca khúc kế tiếp nhau ra đời Kinh Việt
Nam (1968), Ta phải thấy mặt trời (1970) (anh tự ấn hành dưới
tên NXB Nhân Bản). Ở giai đoạn này anh cùng xuống đường
với thanh niên, sinh viên, học sinh. Anh hát:
-
"Nơi đây tôi chờ.
-
Nơi kia anh chờ.
-
Trong căn nhà nhỏ mẹ cũng ngồi
chờ.
-
Anh lính ngồi chờ trên đồi hoang
vu.
-
Người tù ngồi chờ bóng tối mịt
mù...
-
... Chờ tin mừng sông chờ núi cũng
chờ mong
Chờ trên vừng tráng mẹ thắp lên
bình minh
-
Chờ khô nước mắt chờ đá reo
ca
-
Chờ áo cơm nuôi cho những trẻ
con không nhà
-
Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho
những tình thường vỡ bờ.
(Chờ nhìn quê hương sáng chói - Kinh
Việt Nam)
Hay:
-
"Rừng núi dang tay nối lại biển xa
-
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối
sơn hà..."
(Nối vòng tay lớn - Kinh Việt Nam)
Hoặc:
-
"Ta bước bước đi, bước bước
hoài, trên quê hương dấu yêu này. Còn bao nhiêu người nhìn
nhau hôm nay.
-
Đôi mắt bóng tôi trái tim nghi ngại
còn ai quanh đây
-
chưa góp tiếng nói chưa nối lại
nắm tay..."
(Chưa mòn giấc mơ - Ta phải thấy
mặt trời)
Và:
"Huế - Sài Gòn - Hà Nội quê
hương ơi sao vẫn còn xa. Huế - Sài Gòn - Hà Nội bao
nhiêu năm sao vẫn thờ ơ. Việt Nam ơi còn bao lâu những con
người ngồi nhớ thương nhau..."
(Huế - Sài Gòn - Hà Nội - Ta phải
thấy mặt trời)
Sang đến năm 1972, cục diện chiến
tranh trên tòan miền nam vô cùng ác liệt, một cuộc "Việt
Nam hóa chiến tranh" dưới mắt người Mỹ. Bằng con đường
phản chiến lấy trái tim nhân ái mà giải quyết mọi điều,
trên cơ sở tình tự dân tộc, Trịnh Công Sơn thì đã mệt
nhoài, và tuyệt vọng. Anh cho ra đời tập ca khúc Phụ khúc
da vàng, mà anh đã cho rằng đáng lẽ không nên viết. Đây
là tập ca khúc cuối cùng của dòng nhạc phản chiến Trịnh
Công Sơn.
Anh hát để kết thúc cho một nỗ
lực vô vọng của chính mình:
-
"...Đường anh em sao đi hoài không
tới
-
Đường văn minh xương cao cùng với
núi
-
Đường lương tâm mênh mông hoài
bóng tối
-
Trái đau thương cho con mới ra đời..."
(Hãy nhìn lại - Phụ khúc da vàng)
Sau 1975, có một sự im lặng đè
nặng lên những ca khúc phản chiến từng một thời nỗi tiếng
lẫy lừng của anh. Và chính anh cũng giữ sự im lặng cho đến
ngày qua đời.
Nếu hôm nay ta nhìn nhận và đánh
giá cao những tình khúc của anh, chúng ta không thể nào bỏ
qua được những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn.
Vì chính những ca khúc này đã tạo cho anh có được một
tầm cỡ như ngày nay, cho dù những tình khúc của anh vốn
đã rất tài hoa.
Có người sẽ cho rằng không phải
nói đến những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn nữa,
vì chữ thời đã qua rồi. Nghĩa là không còn thời tính nữa.
Cũng có người sẽ góp ý thêm rằng các ca khúc phản chiến
của anh vốn lừng khừng, dễ dãi, nếu không muốn nói là
ngây thơ, hoặc thiếu logique lịch sử, chính trị hay là cái
gì đó...
Tôi thì cho rằng, đến ngày nay,
qua những trò dâu bể của cuộc thế, thời tính của những
ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn còn. Nó còn trong
ý nghĩa của tiếng nói lương tâm và nhân ái. Qua tác phẩm
của mình chưa từng ai nói dến lương tâm và lòng nhân ái
đậm đà như anh. Tiếng nói này còn phải luôn luôn được
tôn trọng trước khi ta bắt tay vào một công việc, mà công
việc đó sẽ có ảnh hưởng trên hàng vạn, hàng triệu sinh
linh.
Con đường anh đã chọn và anh đã
đi suốt cuộc đời mình là một con đường không dễ chọn.
Nếu từ thời điểm hôm nay để nhìn lại thời bấy giờ
thì rõ ràng là anh đã đi giữa hai lằn đạn. Mà bất kỳ
khi nào một viên đạn từ một hướng nào đó có thể kết
liễu cuộc đời anh. Anh có lý của riêng anh. Là một nghệ
sĩ chân chính, anh đã chọn cái logique của quả tim, và bằng
trực giác nghệ thuật anh đã dựng nên sự nghiệp của mình.
Đừng bắt anh phải làm chính trị, cũng đừng bắt anh, làm
một "con buôn thời thế". Anh sẽ không dại gì đầu cơ, cũng
như đầu tư tài năng và tâm huyết của mình cho một cuộc
chơi ngắn hạn như vậy, mà kết cục thua lỗ là một điều
tất nhiên. Anh chỉ biết sống và rung cảm bằng một quả
tim trung thực, và dùng tài năng của mình để nói lên điều
mà con tim muốn nói. Vì anh là Trịnh Công Sơn, một nghệ sĩ
lớn, một nghệ sĩ của mọi người, và sống giữa mọi người.
Chính sự ngưỡng mộ của mọi người đối với anh lúc anh
còn sống, và đoàn người đông đảo tiển đưa anh lúc anh
qua đời đã nói lên rằng trong sứ mệnh nghệ thuật đối
với dân tộc anh đã thành công.
Trong những ca khúc phản chiến anh
còn để lại, phản chiến chẳng qua là một cách gọi, đừng
chấp, vẫn có nhiều ca khúc có thể hát đơn hay đồng ca
vào thời bấy giờ.
Hãy tiếp tục hát lên những khúc
hát về lương tâm và lòng nhân ái của anh. Vì hơn bao giờ
hết, hôm nay chúng ta vẫn đang cần đến lương tâm, lòng
nhân ái cho những việc lớn lẫn việc nhỏ. Và chúng ta đừng
bao giờ nhìn về bi kịch con người bằng một cái nhìn đơn
giản.
-
Vỹ Dạ, 25-4-2001
Bửu Chỉ
* Source : GIAO
ĐIỂM
|