Chim
Việt Cành Nam
[
Trở Về ]
[ Trang chủ ]
[
Tác giả
]
|
|
Nguyên
văn
Dịch
nghĩa
Dịch
ra thơ Đường luật- Trần Quang Trân - Khương Hữu Dụng - Thu Tứ Dịch ra thơ lục bát - Trần Trọng Kim - Thu Tứ * |
Chỉ
mới nghe trống thúc quân, giờ mới nghe đàn tì bà thúc!
Lên
đường chưa kịp uống, vậy quắc cần câu là sau khi đã
tới nơi sẽ là chiến trường, thấy còn sớm, nên nhậu một
chầu? Rượu
ngon chén quý, người uống một ông tướng?Tướng
say thì "ngọa trướng" cho kín đáo, chớ gục tại chỗ coi
chừng "(ba) quân" nó "tiếu" rần trời! "Tướng
phong" như vầy, chà, sợ ai nấy hơi khó "hồi" đa... Dù
sao, cái hình ảnh chinh nhân lăn quay không phải bởi tay địch
đã vào và vĩnh viễn ở lại trong thơ. (Thực
ra xưa nay đi nói chung thường cũng nhiều người về chớ
đâu tới nỗi hiếm.Cái cớ
nêu ra để... lăn đây, e không mấy vững.) Nguyên
văn Lương
Châu từ Bồ
đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục
ẩm tỳ bà mã thượng thôi Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Dịch
nghĩa Bài
từ làm ở Lương Châu Rượu
nho ngon đựng trong thứ chén ban đêm phát sáng Muốn
uống thì đã nghe tiếng tỳ bà trên lưng ngựa thúc giục Có
say nằm nơi sa trường (1) bạn cũng đừng cười Vì
xưa nay ra trận đâu được bao nhiêu người về. Dịch
ra thơ Đường luật Trần
Quang Trân: Bồ
đào rượu ngát chén lưu ly, Toan
nhắp, tỳ bà đã giục đi. Say
khướt sa trường anh chớ mỉa, Xưa
nay chinh chiến mấy ai về? Khương
Hữu Dụng: Rượu
đào chưa cạn chén lưu ly
Thu
Tứ: Rượu
ngon chén quý mới kề môi
Quỷ
Môn bước đã tới nơi rồi!(2) Dịch
ra thơ lục bát Trần
Trọng Kim: Rượu
nho kèo chén lưu ly, Uống
thì trên ngựa tiếng tì giục sôi. Say
nằm bãi cát chớ cười, Xưa
nay chinh chiến mấy ai đã về. Thu
Tứ: Bản
1: Rượu
ngon chén quý vừa nâng Kề
môi chửa nhắp đã ngân tiếng tỳ Nốc
say nằm bãi ngủ khì Ai
cười chi kẻ một đi không về... Bản
2 (thời hiện đại, người uống là cấp chỉ huy): Mác-ten
rót cốc pha-lê Cụng
chưa kịp uống, "... lên xe", lính mời Dô!
Dô! Cấm đứa nào cười Mai
giao chiến biết còn đời hay không!... Bản
3 (thời hiện đại, người uống là chiến sĩ): Gò
Đen còn nửa bi-đông Mở
chưa kịp uống, "Tập trung!" vang trời Biết
đâu mai sớm xong đời Tối
nay xài hết, miễn cười, anh em! (1)
"Sa trường" có hai nghĩa: bãi cát và chiến trường, ở đây
không biết nghĩa nào. (2)
Thơ xưa (không nhớ tên bài) có câu: "Quỷ Môn quan! Quỷ Môn
quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!", nghĩa là: "(...) Mười
người ra đi, chỉ một người trở về!". Nguyễn Du cũng có
bài thơ chữ Hán nhan đề "Quỷ Môn quan", đề vịnh một chỗ
núi non hiểm trở thuộc tỉnh Lạng Sơn. |
|