Chim Việt Cành Nam           [   Trở Về   ]          [ Trang chủ ]             [  Tác giả ]

THU HỨNG CỦA ĐỖ PHỦ

Thu Tứ

Nguyên văn
Dịch nghĩa
Dịch ra thơ Đường luật
- Nguyễn Công Trứ
- Ngô Tất Tố
- Khương Hữu Dụng
- Bùi Khánh Đản
Dịch ra thơ lục bát
- Trần Trọng Kim
- Thu Tứ
Bài thơ tám câu, sáu câu ngoại sự, hai câu tâm sự. Mắt trông, tai nghe, chạnh lòng, "nên thơ"...

"Cô chu nhất hệ cố viên tâm"... Người bơ vơ đất khách, mà chính cái con thuyền của người nó đang cũng bơ vơ! Từ nơi "vườn xưa" nào, người và thuyền cưỡi nhau chở nhau trôi dạt đến đây, để chiều thu này cùng nhau... rét.

Thuyền với Đỗ Phủ, cái "hệ" không phải thường đâu. Nhà thơ có lúc phải sống trên thuyền, và cuối cùng đã chết trên thuyền.

Thuyền với người "nát" đã mười mấy thế kỷ rồi. Nhưng cái tâm sự chiều thu của "người thuyền" thì vẫn còn làm nẩy ra thơ.

Nguyên văn

Thu hứng

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa (1)

Cảm hứng mùa thu

Sương móc làm cho rừng phong tiêu điều
Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt
Mặt sông in trời, sóng như nhảy tận lưng trời
Trên cửa ải mây giãng sát mặt đất
Bụi cúc nở hoa bấy nay đã hai lần làm rơi nước mắt (2)
Lòng nhớ quê chỉ còn biết buộc vào chiếc thuyền lẻ loi này
Ở đây ai nấy đều đang lo cắt may áo rét
Trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày giặt áo về chiều nghe hối hả.(3)

Dịch ra thơ Đường luật

Nguyễn Công Trứ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.

Ngô Tất Tố:

Vàng úa rừng phong, hạt móc bay,
Non Vu hiu hắt phủ hơi may.
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng,
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây.
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở,
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy.
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh,
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.

Khương Hữu Dụng:

Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày.
Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
Đầu ải mây sà mặt đất bay.
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước,
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.

Bùi Khánh Đản:

Sương đọng rừng phong héo hắt cây
Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay
Trên sông sóng cuộn, trời liền nước
Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy
Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.

Dịch ra thơ lục bát

Trần Trọng Kim:

Rừng phong xơ xác sương bay,
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng.
Ngất trời sóng dội lòng sông,
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa.
Con thuyền buộc mối tình nhà,
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng.
Áo đông may cắt rộn ràng,
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.

Thu Tứ:

Rừng phong quạnh quẽ sương rơi
Non xa dáng cũng buốt hơi thu rồi
Lòng sông sóng nhảy lưng trời
Ải xa mặt đất bời bời mây giãng
Vàng hoa thôi lại ướt khăn
Thuyền côi nhớ bến bâng khuâng vô vàn
Rét lên thước, kéo rộn ràng (4)
Thành cao chầy nện âm vang bóng chiều.

_____________

(1) Tham khảo:

- Thơ Đường, nxb. Vãn Học, VN, 1987

- Đường thi trích dịch, Đỗ Bằng Đoàn dịch nghĩa và chú giải, Bùi Khánh Đản dịch thơ, nxb. Vãn Học, VN, 2006.

(2) "Tùng cúc" nghĩa là bụi hay khóm cúc. Chúng tôi thiển nghĩ có lẽ đó không phải là bụi cúc trồng ở vườn xưa, mà là một bụi cúc chở theo trên thuyền đã hai năm, cứ mỗi lần nở lại làm chủ thuyền nhớ nhà rơi lệ.

(3) Người Tàu xưa giặt áo, giặt vải bằng cách đặt lên một tảng đá rồi dùng chày mà nện. Khi rét về, cần áo ấm, có thể giặt áo cũ hoặc giặt vải để cắt may áo mới.

(4) "Đao xích" nghĩa là kéo và thước may, theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Vậy "đao" đây là "tiễn đao", tức là cái kéo.