Bình Chú:
Khi được đọc bài
thơ này của Nguyễn Trãi, câu thơ thứ tư đã thu hút tôi
lạ lùng:
Tiêú
đàm nhân tại bích vân trung.
(Nói cười người
ở trong đám mây xanh)
Một câu thơ ung dung
tự tại, thanh thoát, chữ dùng rất giản dị nhẹ nhàng, mà
sao ta thấy chan hoà một tư cách cao vòi vọị của người
thơ. Và bài thơ dich chỉ viết xong khi tôi tạm bằng lòng
câu:
Người đứng
giữa mây nói nói cười.
Nhưng thật ra để
nói lên tâm tình Nguyễn Trãi, thì phải có đủ cả hai câu
3, 4:
Mắt nhìn
vũ trụ ngoài tầm biển
Người đứng giữa
mây nói nói cười.
Không phải là vẻ
kiêu hãnh tự hào, lời thơ nhẹ như không, nhưng đầy nức
sự thoả lòng vì công cuộc giải phóng đất nước do Lê
Lợi cầm đầu, vừa đánh đuổi xong giặc Minh, kẻ xâm lược
hỗn sược phương bắc, Nguyễn Trãi, người có công đầu,
sác nhận rằng:
"Giữa vũ
trụ này, đây là đất của tổ tiên ta, dân ta đã oai hùng
dành lại được, là nơi ta đặt chân đứng lên làm chủ,
cười cười nói nói hiên ngang giữa mây trời".
(Đó cũng chính
là tấm lòng đầy xúc động của một người dân Việt thời
nay, đứng tại đỉnh núi thiêng Yên Tử phủ mây, vào lúc
tang tảng sáng, chứng kiến tận mắt cảnh trời núi ửng
hồng. Với tầm mắt vượt ngoài vịnh Hạ Long diễm lệ dưới
kia, người đó nhìn ra vũ trụ, thấy mình đang đứng giữa
mây núi quê hương, lo lắng cho đất nước trước hoạ xâm
lăng).
Sau đó, trong khoảng
trời mây núi mênh mông, rừng trúc bạt ngàn, suối, thác,
uốn lượn của Yên Tử Sơn, Nguyễn Trãi tới lễ trình miếu
thờ vua Trần Nhân Tôn. Ngài là chủ nhân đất nước này,
người chỉ huy tối cao của quốc dân trong hai lần cuối cùng
phá giặc Nguyên Mông xâm lấn vừa mới hơn một thế kỷ
trước (1385, 1388), mà cũng là tổ tiên dòng họ ngoại, của
mẹ ông. Khi ngửng lên chiêm bái, ông thấy tượng một vị
sa môn đầu đà tu khổ hạnh, nét mặt thanh thản không vướng
chút bụi trần. Ông thấy cốt cách nhà vua đắc đạo của
Đại Việt, người được con dân thời đó gọi rất thân
thương là "vua Bụt", hiện lên trong ánh hào quang, với đôi
mắt có hai con ngươi nhìn ông như chan hoà hồn thiêng sông
núi.
Hình như đối với
phần lớn người Việt chúng ta ngày nay, danh xưng "Vua Bụt"
như còn xa lạ. Đó chính là do âm mưu thâm độc của giặc
Minh, chỉ trong hơn một chục năm chiếm đóng đất nước
ta: Chúng muốn xoá tận hết văn hoá dân ta, chúng đã phân
chia nước ta thành quận huyện của Tàu, tất cả tài liệu
về văn minh Đại Việt xưa, nhất là chữ Nôm, quốc ngữ
của dân ta, đã bị chúng cố tình huỷ diệt. Cho nên hiện
nay, ta gần như chỉ còn lại bốn bài phú chữ Nôm hiếm hoi
của thời đó, còn cất dấu trong các chùa chiền xưa cũ,
trong đó có bài Vịnh Vân Yên Tự Phú viết bởi Tam Tổ Huyền
Quang, còn có danh hiệu này:
…
nhèn chi vua Bụt tu hành…
Nhưng nếu ta
tìm kiếm rộng ra ngoài, danh xưng Bụt dành cho Phật còn
có rất nhiều trong những thư tịch đời xưa, ngay trong ca
dao:
Gần chùa
gọi bụt bằng anh
Thấy bụt hiền
lành cõng bụt đi chơi.
cũng như trong Quốc
Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, và nhiều tư liệu đời Lê khác:
..Thân đà
hết luỵ thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng,
bụt há cầu…(Mạn Thuật, bài 5)
…Dù bụt
dù tiên ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú
ông này..(Mạn Thuật, bài 6)…
Phạm Thảo Nguyên
|