Trở Về   ]       [  Tác giả   ]


Laiquangnam giới thiệu
Cao Bá Quát –
 高伯适
Quá Dục Thúy sơn
 
Quá Dục Thúy sơn
Nguyên tác chữ Hán 
過浴翠山 

天地有斯山 
萬古有斯寺 
風景已奇絕 
而我亦來此 
我欲登高岑 
浩歌寄雲水 
有約乃違斯 
凡事大都爾 

Phiên âm :
Quá Dục Thuý sơn 

Thiên địa hữu tư sơn 
Vạn cổ hữu tư tự 
Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt 
Nhi ngã diệc lai thử 
Ngã dục đăng cao sầm 
Hạo ca ký vân thuỷ 
Hữu ước nãi vi tư 
Phàm sự đại đô nhĩ. 

Xin tạm dịch nghĩa 
Qua núi DỤC THÚY 

Trời đất có núi này 
Muôn thuở có chùa này 
Phong cảnh quá  kỳ vĩ 
Mà ta lại đến đây 

Ta muốn lên núi cao nhọn 
Khúc Hát  ký gửi vào mây nước 
Ước thế mà chẳng được 
Thường thường mọi sự đều như vậy. 

Chú :
Sầm là ngọn núi nhỏ nhưng cao .
Núi DỤC THÚY  tức là núi  Non nước tại tỉnh Ninh Bình .

Bản dịch 

Quá Dục Thúy sơn

01

Đất trời sẳn núi non
Ngàn năm Cổ tự còn 
Sắc màu tô nét đẹp 
Đến, thổi góp phần hồn 

Ta muốn trèo tận đỉnh 
Ném vào mây khúc hôn 
Ước sao,  mình cứ ước,
Lệ xưa nay... ý còn!.

02

Quá Dục Thúy  sơn

Đất trời đã sẳn núi này,
Vạn niên cổ tự sẳn đây chung niềm 
Sắc màu cảnh vật cõi tiên 
Đất ta đang đứng ngỡ miền chiêm bao 

Muốn leo lên đỉnh núi cao
Hát vang một khúc ném vào “nước mây”
Cao xanh có thấu lòng nầy ?
Ước mình cứ ước !... ... xưa nay lệ thường 

-o0o0o-
Cảm xúc riêng 

Nước mây, nước của ngàn mây mang hơi nước từ bốn  phương trời về đây. Nay mây mang hơi nước chứa ngàn lời cầu nguyện của thi nhân cùng với nguyện ước cho tổ quốc sớm qua cơn nguy biến.  Lời ước này mong được tan thành triệu triệu giọt mưa rưới khắp mọi miền đất nước, cùng mọi nơi trên thế giới đang chở che người Việt tha hương. Cụ Cao không dùng "trời mây" vì cố ý, mây thì hay bay lang thang, nước mây là nguồn sinh lực của cuộc sống ấm no, người xưa thật hữu ý.

Lời ước của Cụ chứa nội dung gì vậy?.

Vào thời Cụ, kể từ năm 1840 đến năm 1854, toàn quốc đã  có trên dưới 50 cuộc nổi nghĩa của đám dân Viết nghèo khó, khốn cùng, tương lai vô cùng mù mịt , họa ngoại  xâm nằm ngay trước cửa nhà mình.  Nổi tuyệt vọng này biết ai người chia sẻ. Dân đen đang sống đời thú vật nai lưng làm cho bọn chúng ăn.  Tiền của nhân dân, thuế khóa rút hết vào việc xây lăng cho vua cha, vua con triều Nguyễn, quốc khố ngày trống rỗng. Tệ nạn nam bắc, người cũ người mới khiến lòng người Việt phải nói chọn cách nói chuyện qua các mặt nạ để giữ lấy thân. Vua chúa triều Nguyễn đã tạo một tiền lệ xấu xa về việc xây lăng tẩm huy hoàng, một phong cách vô cùng xa lạ với phong cách đời Lý Trần thấm nhuần triết lý nhân sinh Phật giáo. Tệ nạn xây mồ mả đẹp tồn tại mãi cho đến tận ngày nay, tệ nạn này đã ăn sâu vào cư dân kinh thành Huế.  Thời Thiệu Trị, Tự Đức quan quân nhà Nguyễn nổ lực thu vét tiền thuế đem xây đền đài, đúc tượng. Hết xây lăng Minh Mạng, rồi đến lăng Thiệu Trị, rồi lăng Tự Đức,  những cái lăng bên dưới chứa xác thân nhà vua tại kinh thành Huế chính là mầm ô nhục, làm nước ta rơi vào vòng nô lệ mãi 114 năm sau này. Ngoài thì tàu Pháp thị uy tại cửa Hàn [Đà nẳng ].  Nước sắp mất, sao lòng người có học đôi chữ thánh hiền lòng cứ mãi nguội lạnh!. 

Cụ Cao cầu gì vậy.:

Thập tải luân giao cầu cổ kiếm 
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa,
(câu đối nổi tiếng của cụ Cao ) 
Tạm dịch :
 Mười năm kết bạn cầu gươm báu 
 Một kiếp nghiêng mình lạy đóa mai 
Laiquangnam 

 
Tham khảo

1-Vũ Khiêu chủ biên, Thơ chữ Hán Cao Bá Quát , nxb Văn học 1970


Trở Về   ]