Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
]
|
|
Tập III : Huế từ phương xa Võ Quang Yến *** |
Ở
Pháp người ta thường bảo một con én không đủ để báo
mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một
chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng
có thể là nữ sĩ ấy. Đó là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương,
ái nữ của cụ ưng Bình Thúc Giạ Thị. Tháng 10 năm nay 2002,
chị được mời cùng với nhà hát tuồng Đào Tấn qua Muenchen
diễn vở Đông Lộ Địch của thân phụ chị, do chị Thái
Kim Lan tổ chức trong chương trình Trung tâm Giao lưu Văn hóa
Đức Á châu. Sau khi xong công việc, chị ghé qua Pháp thăm
bà con, bạn bè. Đây là một mong ước của chị từ lâu và
cũng là cái may cho đồng bào hâm mộ thơ nhạc ở Kinh thành
ánh sáng, đặc biệt những ai đã từng rung cảm với câu
thơ điệu hò xứ Huế, nhưng biết bao người đang mong chờ,
làm sao thỏa mãn được tất cả. Vì vậy ý kiến của các
bạn tổ chức một buổi họp chung là hợp lý nhất. Chỗ
họp được chọn cũng rất hợp với tinh thần nêu ra của
những người mời và của vị khách quý: Phật Đường Khuông
Việt ở Orsay, miển nam Paris.
Orsay không phải là nơi xa lạ đối với đồng bào ta ở vùng Paris. Ở phía nam kinh đô chừng 20 km, một nửa tiếng đồng hồ tàu điện RER từ trung tâm Paris, thành phố xinh xắn nầy nằm ép mình trên bờ con sông nhỏ Yvette, ngay giữa thung lũng Chevreuse. Sinh viên Việt ở đây khá đông, nhất là những năm viện Đại học Orsay kết nghĩa với hai trường Đại học Tp Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Năm 1994, thị xã tổ chức cả một tuần lễ Việt Nam với sự tham dự của Giáo sư Trần Văn Khê, một cuộc triển lãm tranh hai họa sĩ trẻ Sơn Lâm và Vũ Hòa, những đêm nhạc với nghệ sĩ Trương Thị Quỳnh Hạnh và ban Phượng ca Dân ca Quốc nhạc với giáo sư Phương Oanh, vở kịch Việt Nam của tôi của Maryn Hache, bàn tròn về huyền thoại do Vincent Ton Van và Sean James Rose điều khiển, về kinh tế qua lời trình bày của chị Ngô Thị Cúc, bên cạnh những cuộc biểu diễn Việt võ đạo, Thái cực quyền, nhóm dân tộc Thần Phong, múa lân, ăn cơm Việt, kể chuyện cổ tích,...Vài năm qua, với sự góp sức của Hội Phật tử Âu châu, một cái nhà nhỏ ở xóm Le Guichet được sắp đặt trang bị lại thành một ngôi chùa. Hai tu sĩ ở Huế qua đã khéo tay sửa sang, biến hóa cái nhà kia thành một Phật đường xinh xắn, có me đất sân vườn trước, có dàn bầu sai trái phía sau, điểm thêm nét quê hương nơi đất khách nầy. Chính ở nơi đây, hôm chủ nhật 3.11.2002, chị Hỷ Khương được mời tiếp xúc bà con bạn bè, có kẻ chỉ biết tên, biết tiếng, có người thân thích từ những chục năm trước. Chị Hỷ Khương không lại một mình. Anh Trần Văn Khê đang công tác ở Việt Nam cũng chịu khó về cùng dự mặc dầu mỗi chuyến bay là một nỗi mệt cho người lớn tuổi như anh. Anh đem theo một cây đàn tranh do nhạc sĩ Vĩnh Bảo đặc biệt đóng cho anh với gỗ cây ngô đồng mua từ Nhật về. Cây đàn to lớn hơn đàn thường thấy, tiếng đàn cũng trầm hơn, có điều nặng quá khó mang theo! Anh Khê nhấn mạnh ngay buổi nhạc hôm nay là dành cho khách Hỷ Khương, anh chỉ phụ đàn thôi. Nhưng chị Hỷ Khương thì nghĩ không thể ngâm thơ hay hò Huế mà không có tiếng đàn đệm của Trần huynh. Thật vậy, sau nầy ai cũng nhận ra tiếng đàn tranh rất phù hợp với giọng ngâm thơ hay hò Huế của chị. Dù sao, một điều rất rõ là không có chương trình định trước, thính đơn sẽ được ứng biến tùy theo cảm hứng của nghệ sĩ và gợi ý của thính giả. Buổi ca nhạc bắt đầu vào lúc 14 giờ 45, chỉ chậm 15 phút sau giờ chỉ định. Sau vài lời mở đầu của thầy Tịnh Quang, anh Khê giới thiệu chị Hỷ Khương và luôn tiện trình bày vở Đông Lô Địch. Để giúp thính giả thưởng thức, anh giải thích những cách sử dụng thơ Việt Nam, từ đọc, ngâm, ru, hò qua các lối hát, hát chèo, hát bội, hát quan họ, hát cải lương,... Rồi anh nhường lời cho chị Hỷ Khương. Là một người con hiếu thảo, chị bắt đầu với các tác phẩm của thân phụ. Vì hôm nay ở chùa nên chị chọn những bài Phật giáo. Trước khi ngâm, chị đọc luôn ba bài thơ của cụ ưng Bình: Đọc báo Viên Âm, Khuyên học Phật và bài thơ tuyệt bút là bài thơ cuối cùng của đời cụ: Tiếng chuông lòng ...Tôi cũng như ai phường đạo hữu,Tiếng vỗ tay sau mỗi bài ngâm vang dội trong thính phòng dần dần chật kín. Mấy thầy đếm đâu cũng có khoảng 80 người, một số thính giả có thể cho là lớn trong loại gặp gỡ nầy. Tiếp theo, chị đọc một bài chị sáng tác nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh cụ ưng Bình, khi đọc đến hai câu Lối xưa di huấn thời con trẻchị thổn thức xúc động, hai mắt ướm lệ. Anh Khê đặt nhẹ tay lên vai chị. Dần dần trấn tĩnh, chị tiếp tục đọc hết bài thơ, ngâm, rồi bắt qua một điệu hò như anh Khê đã giải thích. Chị tiếp tục trình bày câu hò có tiếng nhất của cụ ưng Bình đã biến thành câu hò dân gian: Chiều chiều trước bến Văn Lâu,Trước giờ nói chuyện, anh Khê đã có giải thích cho nhà tôi và tôi về những khó khăn khi muốn dịch chữ ai trong câu hò ra Anh ngữ. Tôi đã có đọc bài nầy của anh đăng trong cuốn Hồi ức về cha tôi mới tái bản và bổ sung mà chị Hỷ Khương chịu khó đem qua Pháp tặng tôi. Xin thành thật cám ơn chị. Câu hò quá quen thuộc, giọng hò lại Huế đặc làm thính giả quên mình đang ngồi bên trời Tây. Trong khoảnh khắc tôi tưởng mình đang ở trên sông Hương với trăng, với nước, với tình bạn đậm đà. Câu hò nầy cũng đưa tôi về lại mấy chục năm về trước, khi tôi được nghe trong một các xét toà soạn báo Bách Khoa gởi tặng...Bây giờ thấy chị có lẽ hơi mệt, để chị nghỉ lấy lại sức, anh Khê tiếp tay giúp chị, ngâm bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quang theo điệu bán xuân bán ai. Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,Thính giả còn muốn được "nổi da gà" lại yêu cầu một điệu hò khác. Thì ra không phải một mình tôi ghiền hò. Chị xin lỗi cho biết mấy ngày kia hơi ho, khan giọng, may nhờ anh bạn bác sĩ Phạm Doãn Để tận tình chăm chóc nên khá lên được một chút nhưng không dám bảo đảm hoàn toàn giọng hò. Anh Khê kể một chuyện vui. Chị Hỷ Khương thường hay ho nhưng khi chị hò thì lại hết ho cho nên bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có câu giải thích: Chữ hò liền với chữ ho một vần.Có người yêu cầu chị hát một khúc tuồng Đông Lộ Địch. Anh Khê mách ngay: Hỷ Khương thuộc lòng các màn trong tuồng và có thể thế chân bất cứ vai nào. Anh Khê kể lại cốt truyện đồng thời so sánh với nguyên bản Le Cid. Anh thật là một kịch sĩ có tài. Anh kể chuyện hấp dẫn cũng như khi anh hát, anh đàn. Hơn nữa, anh nhấn mạnh những điểm thay đổi trong bản của cụ ưng Bình để cho chuyện có được tinh thần Việt Nam. Nghe anh kể, ai mà không thèm xem tuồng hát đó. Nghe đâu sang năm Đoàn tuồng sẽ kiếm cách sang trình diễn ở Pháp. Được hay không, không phải tùy ở chị Hỷ Khương. Giờ đây, chị bảo không quen hát nhưng để đáp thịnh tình của thính giả, chị chịu trình bày đoạn Chi Manh đi tu. Lánh xa nơi hỏa trạchHát bội là một thể hát ngày nay ít còn được thích chuộng, thật ra vì người xem ít biết tuồng hát, ít biết thưởng thức điệu hát. Ngày tôi còn nhỏ, khi khánh thành một ngôi chợ mới, làng thường mời một đoàn lại hát luôn ba ngày ba đêm. Tôi lại may mắn có người ông ngoại học hành chẳng đỗ đạt chi nhưng thuộc rất nhiều bài hát bội nên thường được ông hát cho nghe. Hồi ấy, tôi chẳng hiểu gì cả điệu hát lẫn cốt tuồng, nhưng nghe mãi thì cũng ghi vào đầu óc một vài làn điệu và cách diễn tuồng. Tôi tự hỏi phải làm gì cho môn hát bội còn tồn tại. Thấy chị Hỷ Khương lần nầy thật mệt, tội nghiệp quá, có người đề nghị chị Thu Tâm lên tiếp giọng. Thu Tâm trước kia là một ca sĩ của đài phát thanh Sài Gòn. Chị thú thật từ sáng nay cố học cho thuộc một bài hò mái nhì để hò tặng chị Hỷ Khương. Đó là bài của cố nhạc sĩ Bửu Lộc sáng tác tặng Hỷ Khương cách đây đúng 30 năm: Nữ sĩ Hỷ Khương người đoan trang thanh nhã,Cao hứng, Thu Tâm ca luôn bài Nhắc đến miền Trung và hò bài Vác đó ra đơm. Tiếp theo, anh Khê ngâm lối hơi thiền bài kệ bằng chữ Hán Cáo tật thị chúng của Thiền sư Mãn Giác đã được Ngô Tất Tố dịch: Xuân đi trăm hoa rụng,Lại có yêu cầu hò mái nhì. Chị Hỷ Khương hò một câu của cụ ưng Bình cũng được biết nhiều, bắt qua ca một bài nam bình. Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,Muốn kết thúc buổi họp, chị xin đọc bốn câu thơ Còn gặp nhau Còn gặp nhau thì hãy cứ vuivà nhường lời cho cô cháu Thư Lâm, gọi cố thi sĩ Đông Hồ bằng cố ngoại, đọc toàn bài thơ ấy và bài Ông đồ của Vũ Đình Liên. Được gợi ý, anh Khê cũng ngâm theo kiểu xưa, thời 1946, theo anh lúc còn đang lạc đường, vọng ngoại, bài Đi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Về mặt sử nhạc, đây là một dẫn chứng vô cùng quý báu. Riêng về bản thân anh Khê, thấy phong cách và công tác ngày nay của anh, đây là một chuyển hướng rất quan trọng và vô cùng bổ ích cho nền nhạc học Việt Nam. Hơn một giờ rưởi đã qua. Thầy Thiện Niệm dọn ra mấy mâm chè khoai môn, Huế quá chừng. Tôi thú thật mấy chục năm rồi không còn nhớ mùi vị. Có lẽ là chè đã giúp lấy lại sức, chị Thu Tâm tự động hò mấy bài hò giã gạo do nhạc sĩ Bửu Lộc sáng tác. Vì nói đến cố nhạc sĩ nầy, chị Hỷ Khương nhắc lại câu hò Tình Thúc Giạ của ông ta: Tình nhã tình thanh là tình Thúc Giạ,Sau mấy bài thơ vui như Áo Lơ muya dày cao gót, Trái sầu riêng... cũng theo yêu cầu, chị Hỷ Khương kết thúc buổi gặp gỡ với bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử: ... Mơ khách đường xa, khách đường xa,Mọi người ra về vào lúc chiều tàn, sương lạnh bắt đầu lên nhưng tôi chắc ai cũng mang về một tấm lòng nóng hổi, một trái tim phồng lớn. Riêng tôi thấy Huế xích lại gần hơn. Tôi xa Huế quá lâu nên có thể tôi không thấy Huế như nhiều bạn khác. Huế xưa của tôi chỉ nằm trong những kỷ niệm êm đềm, những giấc mơ không muốn chấm dứt. Xin cám ơn chị Hỷ Khương không ngại đường sá xa xăm, anh Trần Văn Khê bất chấp sức khoẻ đã cống hiến cho chúng tôi một chiều thu rực rỡ, một chiều Huế khó quên nơi đất khách quê người. Hy vọng rồi đây còn gặp nhau nữa. Được gặp nhau mới còn gặp nhau, |
|
|
[
trang trước ] / [
trang
sau ]
|