Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
]
|
|
Tập I : Đường về xứ Huế Võ Quang Yến *** |
1986
: 37 năm từ Sài Gòn ra đi tưởng không hẹn ngày về. Thế
mà rồi tôi cũng lên đường về thăm quê cũ. Thật ra, tôi
bị thúc dục mọi bề : Huế mong đợi ông Hội trưởng Hội
Người Yêu Huế ; anh chị cháu chắt ao ước thấy lại
hay làm quen đứa em, ông chú, ông cậu, người " ôn " lâu năm
đi học xa, đỗ đạt chi đó rồi thành gia thất, lập cơ
nghiệp bên phương trời Tây muôn trùng ; hai đứa con trai thì
đòi cha đưa về thăm nơi chôn dau cắt rún, nơi hai ông bà
nội từ hai bàn tay trắng ra sức làm ăn, xây dựng cơ ngơi
để nuôi một bầy con cho thành người. Làm sao chống cự
lại được mãnh lực cả một số người đồng hương đang
trông chờ, một gia đình đông đúc đang mong ngóng, nhiệt
huyết của mấy đứa con " thế hệ thứ hai " sinh trưởng
nơi đất khách, chỉ biết quê cha đất tổ qua sách vở, báo
chí, dĩa nhạc, băng hình, chứ chính tiếng mẹ đẻ của cha
mình cũng chỉ ngập ngừng được vài câu vài lời. Vì vậy
tôi nhất quyết lên đường, mặc dầu trong trí óc đầy thắc
mắc về những phiền phức, khó khăn mà bạn bè về trước
đã kể lại. Nhưng tôi cũng mạnh dạn vì biết không phải
về nước hoàn toàn vô danh, những bài viết phổ thông khoa
học mấy mươi năm trước thế nào cũng đã có để lại
một tiếng vang tích cực. Hơn nữa, với vài ba đề án khoa
học, xã hội giúp ích xứ sở trong túi, lẽ nào không được
tiếp đón niềm nở.
Thật vậy, xuống sân bay Tân Sơn Nhất là đã thấy ngay cái nồng hậu của người đồng bào, của con cháu trong gia đình. Cuộc tiếp đón nầy chắc chắn là còn vui vẻ hơn nếu trong bước đầu tiên trên đất quê hương không gặp những phiền toái tuy nhỏ và không quan trọng. Mình từ vùng lạnh đến, chưa quen nhiệt độ xứ nóng thì đã phải mồ hôi đầm đìa xếp hàng rất lâu để ra cửa. Vì sao có bốn, năm cái cửa thì chỉ có hai cái mở thôi ? Vì sao bà con sống ở Pháp đã học xếp hàng, làm đuôi, về đây lại quên hết, mạnh ai nấy lấn ? Sau đó phải qua Hải quan khám xét hành lý, đợi cũng lâu lắm mới đến phiên mình vì người ta kiểm điểm từng vật liệu, tiền nong. Vì sao có lắm người được ưu tiên nhờ một phép lạ nào đó ? Vì sao hành khách không được kiểm soát theo thứ tự trình diện trước cửa ? Kiểm soát kỹ càng liệu có tìm ra được mọi vụ gian lậu không ? Chắc con buôn thì có cách đi của họ hay có ngả khác. Cái lưới tung ra chặn lọc loài kiến tí hon, liệu có bắt giữ được những con voi khổng lồ không ? Tôi chưa có thì giờ suy nghĩ về các câu hỏi tràn gập đầu óc thì các anh trong ban liên lạc Huế-Bình Trị Thiên và một cô lộng lẫy trong chiếc áo dài tha thướt, với giọng nói ngọt ngào quen thuộc từ thuở ấu thơ, đã lại chào mừng nghênh tiếp, ân cần trao tặng tôi một đóa hoa tươi. Tôi rất tiếc ở nước ta, vào hồi đó, chưa có tục lệ ôm hôm chào mừng. Ngạc nhiên và biết bao vui sướng. Tôi chưa lại hồn thì họ cho hay : " Anh có gia đình đứng đợi ngoài kia !" Chao ôi, qua cửa kính, hơn ba mươi anh chị, cháu chắt chen lấn trong đám người đang đợi, vươn tay vẫy đón, nỗi vui mừng lộ hẳn trên mặt. Lần lượt bọn cháu chắt làm dấu (vì không nghe được qua cửa kính) giới thiệu từng đứa một vì lúc tôi ra đi, tất cả chúng nó đều chưa sinh ra hoặc còn quá nhỏ. Và phải hơn ba giờ sau tôi mới gặp gỡ được chúng. Tay bắt mặt mừng, hỏi han líu tíu, tôi được tiếp đón quá sức nồng nhiệt như một thần tượng. Trong số người đi đón tôi bùi ngùi không thấy bóng dáng chị ruột tôi, người đã săn sóc nuôi tôi hồi tôi còn nhỏ : chị hằng mong ngóng tôi từ ngày hoà bình trở lại nhưng chị đã mất ít lâu trước khi tôi về ! Tôi cũng nhớ tiếc cụ mạ tôi sớm về cỏi Tiên trước lúc tôi lên đường, vượt trùng dương đi tìm miền đất lạ ! Từ Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã thuê một chiếc xe du lịch cùng hai đứa con và bầy cháu hai mươi sáu mạng chạy ba ngày ra đến Huế. Cuộc hành trình dọc theo xứ sở nầy là một dịp để học lại địa dư miền Nam Trung Việt : Phan Rí nằm đâu so với Phan Rang, Tuy Hoà nằm phía nam hay phía bắc Quy Nhơn ? Mặc dầu có những đoạn đường đang sửa chữa, cầu gãy xe phải chạy xuống lòng sông, đường tương đối cũng tốt. Thỉnh thoảng lại được dừng xe tắm biển, ăn vặt. Nước ta sao có lắm trái ngon, vật lạ : chôm chôm Long Khánh, mít tố nữ, nho Phan Rang, thanh long Nha Trang, dừa Qui Nhơn, mía Quảng Ngãi, chưa kể măng cụt, nhãn, xoài, mạch nha, đường phổi,... Qua Phan Rang phải ghé ngang Tháp Chàm. Quần thể Pô Klong Garai dựng đứng trên Đồi Trầu là nơi thờ vua Pô Romê, có bà vợ thứ ba là công chúa Ngọc Khoa. Đi suốt miền Trung, ngay trên quốc lộ, từ Nha Trang ra Đà Nẵng còn nhiều Tháp Chàm khác : Pô Nagar-Tháp Bà, Bánh Ít-Tháp Bạc, Hưng Thạnh-Tháp Đôi,...biết bao di tích nhắc nhở nàng công chúa Huyền Trân đời Trần đã chịu xa nhà, xa nước để Đại Việt nhận được sính lễ là hai châu Ô Lý từ thuở vua Chế Mân. Những điệu nam ai, nam bằng não nùng ai oán sau nầy nghe ở Huế gợi biết lại bao nhớ nhung, thương tiếc. Xe vượt Tuy Hoà, Qui Nhơn rồi Quảng Ngãi, Quảng Nam, tiến về Hội An, xông qua Vĩnh Điện. Tôi nhắc lại thành phố nhỏ xíu nầy vì hồi trước tôi đã học ba năm tiểu học ở đây. Xe chạy chậm lại nhưng ngoài cái cầu chứng kiến bao nhiêu nước mắt tuổi nhỏ, tôi chẳng còn nhận ra được một ngôi nhà nào : hơn 40 năm qua và hai cuộc chiền tranh ! Chùa Non Nước vẫn đẹp như xưa. Nhưng xe đến quá chậm, chiều mau tàn và khách chỉ còn có trèo lên đỉnh cao nhìn trời, ngắm biển. Ngủ một đêm ở Đà Nẵng rồi sớm hôm sau chúng tôi trèo đèo Hải Vân. Chiếc xe du lịch trục trặc từ lâu, vừa đến chân đèo là máy hỏng hoàn toàn. Thế là một đứa cháu phải trở về Đà Nẳng thuê một xe khác. Mặc dầu lúc nhỏ tôi đã đi nhiều lần khúc đường Huế-Đà Nẵng, đây là lần đầu tiên tôi vượt đèo bằng xe hơi. Đường quanh co và phong cảnh thật hữu tình. Ở mỗi khuỷu đường là một bức tranh mới. Trên trời mây chập chờn cho xứng tên. Dưới chân núi, bãi cát chạy dài, trắng xóa dọc theo nước biển xanh đậm, không một bóng người. Làm sao không nghĩ tới được những bãi biển Hy Lạp, Nam Tư, Ai Cập, Tây Ban Nha, ... khách nghỉ hè tấp nập, đông đúc. Xe chạy ngoằn ngoèo xuống đến Lăng Cô. Không còn sò huyết như tôi mong đợi, chỉ có tôm cua ăn cũng đã đời. Và giọng nói đã rời hẳn miệt Đà Nẵng để hướng về phía Huế. Thật ra, từ Nam chạy ra, và nhất là từ Pháp bay về, đến Lăng Cô có thể coi như là đã đến Huế. Bụi tre, thửa ruộng, con trâu có thể không khác chi mấy ở trong Nam, nhưng đối với tôi đây là quê hương. Còn nhớ hồi nhỏ học trong cuốn sách Tập đọc có bài kể chưyện người đi du lịch khắp nơi, khi về được hỏi nơi nào đẹp hơn cả thì trả lời... Mình chủ quan đến thế ư ? Hay là mình quá " yêu Huế một cách lãng mạn ", quá trìu mến cái xứ Huế lâu năm xa cách nầy mà tâm tình bộc lộ quá chừng. Năm ngoái, trong một lá thư gởi về Huế, tôi tâm sự có lẽ hơi nhiều, một vài câu trong thơ đó được chuyển lại Paris, ngay sau đó một bà bạn đã gọi giây nói đến : " Chi mà viết Kim Sanh dữ rứa hè ! " Xe chạy còn xa, chưa nhận ra chỗ mà đã thấy bảng vào thành phố Huế. Không mấy chốc xe đến Ngoẹo Dàng Xay, rồi cầu An Cựu. Sông An Cựu, nắng đục mưa trong, còn nhỏ như hồi nào. Chợ An Cựu thấy vẫn chật hẹp và đông đúc. Tôi biết chợ nầy nhiều vì trước khi rời Huế đã ở nhà anh tôi đường Bờ sông An Cựu nay đổi ra đường Phan Châu Trinh. Mấy hôm sau có dịp đi bách bộ lại trước ngôi nhà xưa, thấy có vẻ tiêu điều, mấy cây dừa đã bị đốn gần hết, cái vườn trước nhà không còn nữa, người ta đã dựng vào đó hai cái nhà khác. Đi qua nhà cũ mà lòng hơi tủi vì chẳng có ai đó để đón chào mình ; láng giềng đã lẩn tránh nơi xa hay cũng có thể đã thành người thiên cổ ! Đã 38 năm rồi, ai ở đây mà còn biết mình nữa ? Hai chàng Lưu Nguyễn ngày xưa rời làng có ba ngày mà đã bị lãng quên huống là ... Cánh đồng An Cựu vẫn còn đó, cái " bót cò " nay thành trụ sở công an. Nhà Thiên Hựu nổi bật hơn trước vì vườn tược cây cối ít còn. Tôi nhớ hồi làm đội sinh rồi đội trưởng đội "Hùng sư dũng mãnh" đoàn Hướng đạo Lê Lai, đây là nơi dụng võ, tìm đường kín, học truyền tin, sử dụng nút,...Nhưng chưa kịp ôn lại quá khứ tìm về dĩ vãng thì cầu Trường Tiền đã hiện ra trước mắt, tuy gãy một vài, vẫn giữ phong cách ngày xưa. Sông Hương luôn còn gợn sóng, nước chảy đều đều. Thú quá ! Trong mấy năm qua đã bao lần nhìn nước sông Seine mà hồi tưởng đến quê nhà. Giờ đây, Hương Giang lẫn lờ như cô gái Huế. Âu yếm nhìn tôi, hai đứa con kéo tôi ra khỏi chốn trầm tư : " Sao, cảm tưởng đầu tiên của ba là thế nào ? " Mắt ướm lệ, tôi chỉ biết mỉm cười. Đường Lê Lợi rồi khách sạn Hương Giang. Tôi được mời ở nhà khách thành phố nhưng còn vài ngày nữa chung sống với gia đình, tôi không nỡ bỏ rời bọn cháu. Ba ngày thăm viếng bà con, mồ mả rồi cung thành, lăng tẩm. Tôi cũng có đem hai con và các cháu về trên bờ sông Ô Lâu, ở cái thôn Mỹ Cang nhỏ xíu, nay thuộc xã Phong Hoà, thăm nơi tôi đã sống thời niên thiếu. Đây là làng mẹ (tôi nguyên quán làng Nam Phổ, nơi mà con gái ở lỗ trèo cau đó) nhưng tôi đã sinh trưởng ở đây, sống những ngày thơ ngây ấu trĩ và sau đó là những ngày cách mạng chớm nở, những buổi cướp chính quyền sôi nổi tưng bừng. Rồi suốt trong hai năm liền, những buổi tập tự vệ náo nhiệt, những hôm tuyên truyền hào hứng, những đêm họp thiếu niên vui tươi... đã để lại trong ký ức tôi biết bao kỷ niệm sống động, êm đềm. Tôi còn nhớ mãi những tối truyền bá quốc ngữ, những mái tóc bạc cặm cụi trên cái bảng gỗ, dưới ánh đèn dầu leo lét ; những buổi học hát, tiếng cười dòn của các cô thôn nữ hồn nhiên ; những đêm trăng sáng cùng bầy trẻ nô đùa, học tập "chúng ta hôm nay hiệp vầy, cùng nhau nắm tay...", các em còn nhớ không ? Rồi cũng đến hôm khai giảng, tôi phải từ biệt làng xóm vô Huế học, cả đoàn thiếu niên tự động lên ga Mỹ Chánh tiễn đưa, sụt sùi nước mắt như biệt từ anh Giải Phóng Quân lên đường ra trận. Sau đó là những ngày khói lửa của một cuộc trường kỳ kháng chiến. Sơ tán rồi mỗi người một ngả. Cả bầy thiếu niên tôi chỉ gặp lại được một ít vì nhiều em đã hy sinh trong hai cuộc chiến tương tàn. Tôi giật mình nghe giới thiệu : " Anh còn nhớ o Sớm không ? " : tôi còn tìm đôi má ửng hồng của tuổi mười hai ! Thế mới thấy sức tàn phá của thời gian nhất là trên phụ nữ miền quê thật là mãnh liệt. Bến Đình còn đó nhưng tôi tìm mãi không ra cây đa đầu làng, bên cạnh chợ cũ, nơi mấy anh em núp bắn cu xanh với cái ná cao su giản dị, và cũng là nơi đã diễn ra những trận đá banh hào hứng trong suốt mấy tháng nghỉ hè. Những trận lụt vừa qua nghe nói cũng đã tàn hại rất nhiều. Huế bị đổ vỡ khá lớn. Đi một vòng thành nội hay các lăng tẩm thì thấy rõ. Mà ngay ở thành phố cũng còn nhiều vết tích điêu tàn. Công viên trước hai trường Quốc Học (Khải Định cũ) và Hai Bà Trưng (Đồng Khánh cũ) tiêu điều vì thời gian và sau cơn bão số tám năm ngoái. Chỉ còn đài Trận vong chiến sĩ là còn đứng vững. Những cột dàn hoa bây giờ trơ trụi như ở một di tích cổ Hy Lạp không hồn. Bông hoa đây đó chỉ còn vài cây, vết tích của một thời xưa lộng lẫy. Tôi tìm mãi mới thấy được một cây phượng vĩ có ít hoa đỏ thắm. Có lẽ mùa thi đã qua hay vì hết còn hoa phượng, ve sầu cũng im hơi lặng tiếng. Tôi nghe nói đã lâu, bây giờ mới thấy cầu Phú Xuân bắc qua sông Hương, trước trụ sở Ủy ban nhân dân tức là Thừa Phủ lúc trước. Cầu rộng, xe chạy được nhiều, nhưng không có phong cách của cầu Trường Tiền. Đằng khác, nhìn từ cầu Trường Tiền (rét rỉ, cần phải sơn lại) ngó lên Bạch Hổ, sông Hương bị cách đoạn, làm mất một hình ảnh mỹ miều của chốn cố đô. Tôi may mắn được các bạn chở xe máy cho đi viếng các chùa chiền lân cận : Từ Hiếu, Tây Thiên, Trúc Lâm, Bảo Quốc... Cổ kính như xưa, các chùa tương đối ít bị chiến tranh và bão lụt tàn phá. Từ một chốn náo nhiệt như thành phố Paris về đây, thật là những nơi thâm u tĩnh mịch, tiếng vọng lên chỉ là lời kinh, mõ gõ hay là tiếng chim kêu ríu rít trong rừng. Tôi nhớ lại hồi trước cắm trại gần đây, chắc đã ồn ào phiền nhiễu các nhà sư khá nhiều. Cái chùa đập vào trí óc tôi nhất là chùa Huyền Không. Chùa nầy không nằm bên phía Nam Giao như các chùa khác mà phải ngược dòng sông Hương, lên quá Thiên Mụ rồi còn phải đi nữa mới đến nơi. Chúng tôi viếng được một cái vườn đơn sơ, mộc mạc mà kiến trúc mỹ miều biết bao. Ao sen nhỏ, chiếc cầu tre, túp lều tranh,...mới tạo, mỗi chi tiết tỏ ra một suy nghĩ lâu dài. Khắp nơi, những bài thơ nhỏ gài lên cây, lên lá, lên phên nhà,... nói lên tư duy của các nhà sư, nhất là của người sáng lập, hôm ấy vắng mặt, sau nầy tôi mới được biết là thầy Giới Đức. Huế cũng còn đẹp ở các cảnh thiên nhiên. Ai đã được đi chơi đồi thông Thiên An lấp lánh dưới ánh nắng chiều, sau trận mưa rào, chắc cũng phải ngây ngất như tôi trước núi rừng bát ngát. Xa xa túp lều tranh yên tĩnh thả khói nhẹ vương lên nền trời gợn mây dìu dịu. Gần hơn, một thiếu nữ nhẹ nhàng tiến bước, tà áo dài tung lên trước gió lộng : một hình ảnh giữ lại tất cả tình cảm của khách dạo rừng. Tôi bỗng thông cảm anh chàng băng rừng vượt núi về tìm cưới cho được một người vợ Huế. Tôi chẳng có được nhiều thì giờ để mơ mộng. Thành phố Huế đợi tôi, trách móc về mấy ngày rồi mà chưa chính thức bắt tay vào việc. Người Huế mình sao câu nệ quá : gặp ông nầy ông kia phải theo một thứ tự trên dưới ! Thời buổi khoa học, thì giờ lại hiếm hoi, vì sao phải mất công với những điều không cần thiết ? Dù sao, tôi đã được viếng xí nghiệp Hương Giang làm bút bi, đi thăm tòa soạn Sông Hương. Ông bạn Lê Trọng Sâm, ngưòi bạn hồi nhỏ ở làng Phước Tích kế cạnh, cũng lại thăm với ông giám đốc nhà xuất bản Thuận Hóa với một gói sách dày mà các anh đã in. Tôi cũng được gặp nhiều anh họa sĩ như Bửu Chỉ, Phạm Đăng Trí....trong một khu vườn tuyệt đẹp của xứ Huế : vườn An Hiên của bà Lan Hữu. Sau nầy anh Phạm Đăng Trí còn có cho coi tranh ở nhà riêng. Tranh đẹp đã đành rồi mà suy tư của anh còn vương nặng tình cảm Huế. Ban ca nhạc cổ truyền Huế do ông hội trưởng Tôn Thất Toàn dẫn đầu thì tổ chức cho chúng tôi một đêm trình diễn. Tôi thích nhạc Huế, bấy lâu chỉ nghe được qua băng máy, bây giờ được thưởng thức nhạc sống thật là linh động, mê hồn. Giọng ca của các cô Vân Sinh, Thanh Tâm, Minh Mẫn... về ca Huế nay chắc không có giọng nào sánh bằng. Tuy nhiên, nếu nhạc Huế trình diễn trong phòng có cái ấm cúng thân mật, nghe nhạc nầy trên sông Hương, một đêm trăng tỏ, bên nước vỗ nhẹ vào mạng thuyền, thì lại là một hứng thú khác. Thật chăng phải có một tâm hồn rất Huế mới biết thưởng thức những thú vị tế nhị nấy. Sau nầy, tôi rất cảm động khi nghe bảo tuy xa Huế đã lâu tôi vẫn còn giữ nguyên cái giọng Huế thuần túy, không hề lai Nam, lai Bắc, lai Tây. Một lần khác, tôi đuợc khen còn biết ngồi xếp bàn ăn cơm trên chiếu trải dưới đất.... Những lời khen chân thành và vô tư nầy đã chứng minh cho tôi là văn hóa phương Tây dù lâu năm vẫn không lột bỏ được bản chất đã ấp ủ vững bền từ thuở nhỏ và khắc sâu trong lòng mình. Phải chăng vì cái tâm hồn Huế còn tồn tại mãnh liệt trong lòng mà tôi cũng rất thích đồ ăn Huế. Tôi thật may mắn vì từ Paris các bà trong Hội Người Yêu Huế nấu ăn đã giỏi, về thành phố Hồ Chí Minh gặp mấy đứa cháu gái nấu ăn cũng tuyệt vời, sau đó đến Huế, nơi nguồn cội, thì hết còn đòi hỏi gì thêm. Chỉ có một món rau muống chấm mắm nêm mà cũng phải đợi mấy chục năm mới lại được hưởng cái hương vị thanh tao, đậm đà hơn cả mấy cái pho-mat Camembert hay Roquefort của Pháp. Cá trê kho nghệ, mới ngửi qua mùi đã thấy ngon lành, cary Ấn Độ hay tagin Ma Rôc làm sao sánh bằng. Về Huế ăn ngon thì cũng phải làm việc nhiều. Là dân khoa học, tôi được dẫn đi thăm trường Đại học Tổng hợp, Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp Hướng nghiệp, Bệnh viện Trung ương, Bệnh viện Thành phố. Nhận xét rõ ràng nhất là mình thiếu quá nhiều vật liệu, máy móc, phụ tùng, thuốc men... Một việc giản dị như chiết xuất agar từ rau câu chỉ vàng trồng vớt từ các đầm phá Bình Trị Thiên cũng cần phải dụng cụ tối thiểu mới mong đạt được một mức sản xuất đáng kể. Đằng khác kỹ thuật mình còn kém quá. Tôi hy vọng những cơ quan khảo cứu ở Huế sớm bắt tay nhau làm việc chung thì kết quả mới khả quan hơn. Và trong điều kiện ấy, từ Pháp chúng tôi mới tiếp sức được dễ dàng. Rồi đây, nếu dự án thực hiện được, sẽ có thực tập sinh ta qua Pháp học thêm, những chuyên viên Pháp về Huế hướng dẫn. Vì ngoài đề tài trồng rau câu, chiết xuất agar, còn có vấn đề phát triển đầm phá, nuôi tôm nuôi cá. Các nhà lãnh đạo, ở Huế cũng như ở Hà Nội, đã nhận định sử dụng một cách khoa học tài nguyên đất nước là một việc vô cùng quan trọng cho tương lai đất nước thì ta phải ra công thực hiện những dự án đã phác họa mới mong góp phần đắc lực vào công tác phát triển kinh tế nước nhà. Các dự án nầy cũng như hoạt động của Hội Người Yêu Huế, tôi đã có dịp trình bày trong cuộc hội thảo kỷ niệm Hội trường Quốc Học 90 năm. Rất nhiều bạn bè từ khắp các miền đất Việt Nam đã về Huế gặp mặt. Đây là một dịp để thầy trò, bạn cũ tụ họp nhau sau bốn mươi năm xa cách, từ hồi kháng chiến bắt đầu. Anh chị em mỗi người một ngả, con đường đi mỗi người chọn một nơi, bây giờ đứng trước nhau, bắt tay nhau, tình thân ái xưa kia không những còn giữ mà lại có phần quý nhau hơn. Môt anh bạn đại tá bảo tôi phận sự dành độc lập cho Tổ quốc của quân nhân đã xong, bây giờ đến lượt các nhà khoa học kỹ thuật, những chuyên viên kinh tế phải ra tay xây dựng kiến thiết đất nước, như vậy nhiều người chọn những con đường khác nhau sẽ bổ túc cho nhau. Cảm động nhất là hôm một số anh em tổ chức đi thăm một anh bạn học cũ ở ngoài Triều Sơn Tây không về dự Hội trường Quốc Học. Trời hôm ấy mưa dầm dề, may nhờ mượn đưọc một chiếc xe quân đội. Từ xa, tôi đã nhận ra đươc anh ta, tóc bạc răng sún vì đã trải qua biết bao cực khổ trong những năm tranh đấu. Mặc dầu nhiều năm xa cách, anh ta cũng nhận ra tôi ngay, vừa cười lớn, vừa tiến lại ôm choàng tôi, hai tay vỗ mạnh vào vai tôi tưởng như bầm tím sau kỳ hội ngộ đó. Đôi mắt ngấn lệ, bọn tôi nhìn nhau bật cười thỏa mãn. Sau đó cả bọn bạn cũ, văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, sĩ quan, kỹ sư, giáo sư... quây quần với nhau dưới mái hiên nhà và được chị bạn cho ăn nào bánh bèo, nào chè đậu quyên. Thì ra anh chị đã sửa soạn đón chúng tôi từ trước, hú vía, nếu không đến được thì họ sẽ thất vọng đến mức nào ! Sau nầy anh bạn cho biết từ trong khu đã theo dõi sinh hoạt của tôi qua các tờ Đại Học, Bách Khoa, Phổ Thông nhưng không biết khuynh hướng của tôi ngả về phía nào. Vừa rồi đọc Sông Hương thấy tên tôi ghép liền với Hội Người Yêu Huế mới hí hửng mừng thầm. Mấy ai được sống những phút chờ đợi bạn cũ hào hứng như vậy. Năm tuần sống động ở quê hương, nhiều ngày đầm ấm với gia đình, một buổi chiều rạo rực trong ánh nắng vàng, một tối dạo chơi nghe đàn hát trên sông Hương,... biết bao kỷ niệm đã cắt đứt một mảnh tim tôi giữ lại nơi quê nhà. Vào những hôm đi thuyền gông-đôn trên các kênh Venitia trong đêm tối, những chiều chạy ghe phơ-lut ngược dòng sông Nil vào lúc mặt trời sắp lặn, tôi không sao không khỏi so sánh với cuộc đi dạo trên sông Hương. Giờ đây, những đêm trăng sáng, chắc lại phải mò về xóm La Tinh, nhìn nước sông Seine chảy để mơ về Hương Giang bên kia chân trời.
|
|
|
[
trang trước ] / [
trang
sau ]
|