Trong luôn ba tháng, từ
16.10.2013 đến 13.01.2014, kéo dài đến 27.01.2014, viện Bảo
tàng Quốc gia Á Đông Guimet ở Paris triển lãm "Angkor, nơi
sinh nở một huyền thoại - Louis Delaporte và Cam Pu Chia". Được
nhiều hội đoàn như Sony, Total, Nomura,...hổ trợ, cùng thực
hiện với các báo Beaux-Arts (Nghệ thuật), Le Monde (Thế giới),
Le Monde des Religions (Thế giới các Tôn giáo), Télérama,...cuộc
triển lãm ngày nay trình bày thế nào cuộc di sản Khơ me đã
được khám phá ra lại và thế nào công chúng ở Pháp đã
đươc thưởng thức vẻ đẹp Angkor qua các cuộc triển lãm
lộng lẫy quốc tế hay thuộc địa đầu thế kỷ XX. Một
bộ 250 di tích vô cùng phong phú trưng bày những tác phẩm
điêu khắc Khơ me các thế kỷ X-XIII, những tượng đúc khuôn
bằng thạch cao (thực hiện giữa 1870 và 1925), những tranh
ảnh, những tài liệu đô thị thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX (những bức vẻ mực, tranh màu nước, bản in) hầu như
để báo cáo lại những cuộc gặp gỡ đầu tiên của người
Pháp với nghệ thuật Cam Pu Chia xưa qua tay một nhân vật biểu
trưng Louis Delaporte (1842-1925). Là một nhà thám hiểm, ông đeo
đuổi mục đích "đưa nghệ thuật Khơ me vào trong viện bảo
tàng". Những di vật nầy lúc ban đầu được trình bày ở
viện Bảo tàng Trocadéro (từ 1878 đến 1925), sau mới
được chuyển qua viện Bảo tàng Guimet đồng thời được
phục chế. Nhờ cuộc triển lãm, nhiều di vật trở thành
nổi tiếng, từ đấy đưa ra ánh sáng một gia sản đến nay
ít được chăm sóc hay bị bỏ quên.
Ở viện Bảo tàng Guimet
ngày nay, cuộc triển lãm di vật Khơ me tại Angkor chiếm toàn
bộ phòng "triển lãm tạm thời" và các phòng Khơ me "triển
lãm thường trực". Viện Bảo tàng nhân đây phục chế nhiều
di vật trong phòng Khơ me như tháp các khuôn mặt đền Bayon.
Để bổ túc, nhiều viện bảo tàng Pháp cũng như quốc tế
như viện Bảo tàng Rodin, Trung tâm Georges Pompidou, viện Bảo
tàng những năm Ba mươi, chịu cho mượn những di vật của
họ. Ngay cả những viện Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh,
Bảo tàng Quốc gia Angkor cũng hào phóng đặc biệt chịu gởi
qua những tác phẩm điêu khắc trọng đại nhất của gia sản
văn hóa Khơ me. Ông Pierre Baptiste, Quản đốc viện Bảo tàng
Guimet và cũng là Ủy viên điều khiển cuộc triển lãm cùng
với Thierry Zéphir, giải thích lý do là vì không những hàng
triệu khách du lịch hằng năm lại viếng viện bảo tàng mà
còn vì viện có sẵn một bộ sưu tập nghệ thuật Khơ me
đẹp nhất ngoài biên giới đất Cam Pu Chia bấy lâu bị bỏ
quên. Duyên do từ đầu là nhà hình họa Louis Delaporte, nguyên
trung úy hải quân, quê quán thành Loches vùng Touraine, được
ghi tên vào một phái đoàn thám hiểm sông Mê Kông năm 1866
dưới quyền chỉ huy của Ernest Doudart de Lagrée (1823-1868) và
Francis Garnier (1839-1873), trong mục đích tìm một đường
giao thông qua Trung Hoa. Nếu kết quả là chứng minh sông không
thể sử dụng được, đoàn nhân tiện ghé qua Angkor đã được
Henri Mouhot "khám phá" năm 1860. Say mê nghệ thuật Khơ me, nhiều
lần ông trở lại thực hiện hằng trăm ký họa và đổ khuôn
những tác phẩm ngày nay một phần bị hư hỏng hay đã mất
đi. Theo bà Sophie Makariou, Giám đốc viện Bảo tàng Guimet,
đưa ra ánh sáng những tài liệu quí hóa nầy là bước đầu
của sự đổi mới viện Bảo tàng, một viện nghệ thuật
Á châu lớn nhất ngoài đất châu Á. Để cho xứng danh "điện
Louvre Á đông", viện đã mời đuợc hãng Total giúp 800.000
euros ; bộ Văn hóa cũng đóng vào 250.000 euros, đặc biệt
vào công việc trùng tu những tượng đúc khuôn bảo quản
trong một tình trạng thảm hại tại nhìều nơi ở ngoại
ô Paris, tầng hầm điện Tokyo, tu viện Saint-Riquier, trước
khi được đưa về kho tạm giữ ở Essonne mùa thu 2012 để
phục chế.
Một bước dài đã được
thực hiện từ ngày Louis Delaporte lần đầu tiên đứng trước
một Angkor điêu tàn năm 1866 : khối lòi gốc, đá ngổn
ngan, săc phai màu, bia phá vỡ, bãi sụt hỏng, tường sụp
đỗ, thềm xiêu vẹo,...Sau nhiều thế kỷ chịu đựng mưa
gíó, các nóc tháp phân hủy thành mảnh gãy nhỏ rơi xuống
đất. Trên mặt đất, lẫn lộn trong lá rừng một vài đầu
răn bằng đá. Cảnh tượng hư ảo giống như trong truyện
hoang tưởng mô tả lâu đài huyền diệu che dấu dưới các
cành cây uốn éo phủ lá sum sê. Delaporte đã khám phá điện
đài cổ đại Yasodharapura, một kinh đô thần thoại các vua
Khơ me đã mất, nay còn lại đó để quấn chặt, bóp ngạt,
che giấu hay che chở Angkor. Khi gởi Delaporte đi theo đoàn
thám hiểm sông Mê Kông, bộ tham mưu Sài Gòn mơ tưởng những
kết quả lừng lẫy tuơng tự thành tích phái đoàn Bonaparte
qua Ai Cập. Bì bõm trong bùn lầy, giữa một địa ngục nóng
như lửa đốt, đầy dẫy rắn rít, một nhóm binh lính, hải
quân, bác sĩ, kỹ sư, những nhà địa lý học, thực vật
học, địa lý thủy văn phát giác những dấu vết một nền
văn minh huy hoàng. Riêng Delaporte kinh ngạc trước vẻ uy nghi,
phong phú đồng thời bùi ngùi trước cảnh đổ nát của đền
đài, những mương hào, những mặt đường ngưởi khổng lồ
trên những đường đê cũng sụp đổ tan tành. Trong những
điều kiện vô cùng khó khăn, họ ra sức họa vẽ, rập khuôn,
tháo gỡ những kho tàng mà họ muốn tiết lộ cho thế giới.
Để biểu thị vẻ đẹp lộng lẫy đền Bayon của vua Jayavarman
VII ở trung tâm điện Angkor Thom gồm có 64 tháp 4 mặt, Delaporte
đổ khuôn ở đây một bộ mặt, đằng kia lấy dấu ấn một
hàng hiên, xa hơn dấu ấn một hình khắc nổi thấp, ...rút
cuộc ông lập nên một ngôi tháp lý tưởng ! Được
thành tích kích thích, ông còn kiếm cách điều khiển sau nầy
hai phái đoàn 1873 và 1881-1882 qua Angkor. Những lần sau nầy
ông đem theo vài nghệ sĩ đổ khuôn giỏi như Joseph Ghilardi,
Sylvain Raffegeaud thích dùng keo động vật gelatin rập khuôn
rồi sang qua thạch cao, kết quà khả quan hơn. Sau đó còn có
những phái đoàn khác : Lucien Fournereau 1888-1889, Sylvain
Raffegeaud(1890), Urbain Basset (1896-1897), Henri Dufour và Charles Carpesux
(1904).
Ở Paris, trái với dân
chúng hoàn toàn được thuyết phục, những vị khoa cử không
biết hay không muốn đánh giá sắc thái một kho tàng quí báu
như vậy. Sau biết bao vận dụng di chuyển tế nhị trong một
hành trình đường biển khó khăn, kiệt sức, Delaporte thành
công đưa về được trên bờ sông Seine, ngay trước điện
Louvre, 102 thùng di vật ! Nhưng viện Bảo tàng Louvre không
chịu nhận kho tàng biết bao công phu để rút ra khỏi được
chốn rừng sâu xa xăm, Delaporte phải thương lượng để đưa
về tạm giữ ở phòng canh gác lâu đài Compiègne. May thay,
bốn tháng sau, những người tổ chức Hội chợ Quốc tế
1878 thiết lập viện Bảo tàng Đông Dương ở điện Trocadéro.
Măc dầu những nhà quản đốc bảo tàng cũng như các nhà
khoa học nếu không khinh miệt thì cũng dửng dưng trước môn
nghệ thuật dân gian ấy, nhờ được công chúng nhiệt liệt
ủng hộ, Delaporte thành công đưa cao nghệ thuật Khơ me ra
mắt thế giới và chính ông cũng dành cả đời mình để
phục vụ nghệ thuật ấy. Trở nên khá giả nhờ cưới một
bà vợ đẹp, hưởng gia tài lớn, ông được bổ nhiệm
Quản đốc có nhiệm vụ trùng tu và làm cho sinh động (không
lương) viện Bảo tàng Trocadéro tứ 1880 đến 1925. Tỏ lòng
biết ơn ông Delaporte, EFEO (Trường Viễn đông Bác cổ) đã
nâng cao một trang sử nưóc Pháp trong lúc những nhà khảo
cổ học phanh phui quá khứ thế giới, từ Xiêm La qua Ai Cập.
Nối gót Pháp, nhiều nước khác cùng nhau lại sửa chữa 200
công trình nghệ thuật , 500 vị trí địa hình Angkor
: sau khi những mìn Khơ me đỏ đã được dọn sạch, những
người Ý.âm thầm làm công việc củng cố được cho là đẹp
mà ít ai biết ; người Nhật trùng tu với những kỹ
thuật xưa ; người Ấn Độ đổ nhựa lên các hình khắc
nổi thấp để tránh thấm nước nhưng lớp sành bị nén nên
vỡ ra khi nước len vào dưới đá, người Đức bỏ công
sửa chữa những tai hại nầy ; ngoài ra một số
người Hàn, người Úc ,... đua nhau phụ tay phá bụi,
đào bới, phục chế. Một bước thêm của những góp sức
nầy là cuộc triển lãm Angkor, biểu lộ lòng cảm phục trong
luyến tiếc một ý niệm nào đó về nước Pháp vạn năng.
Delaporte là một người
của thời đại ông. Những khám phá của ông đã theo đúng
những phương pháp tiến hành khoa học : thực hiện tuần
tự những bản kê khảo cổ học, những hình rập, những
khuôn rập các công trình nguyên thủy Angkor. Rủi các công
trình nầy đã đổ nát lấp vùi trong cây cỏ nên rất khó
thấy, khó lường. Vì vậy, khi Delaporte muốn xây dựng lại
một công trình lý tưởng gần giống bản nguyên thủy, lắm
khi ông nhượng bộ một vài chi tiết so với xác thực khoa
học. Khi một bộ phận mất thiếu, ông đưa ra giả thuyết
chính xác để xây dựng, dựa lên những mảnh gãy lượm lặt
bên cạnh, không ngoài mục đích hoàn lại phẩm cách cho công
trình. Sự kiện nầy bị chỉ trích nhưng Delaporte luôn tin
ở thể dạng khoa học của mình rất thịnh hành hồi ấy,
tương tự Viollet-le-Duc khi phục chế các nhà thờ. Cho đến
những năm 1920, khi EFEO được thành lập, những kiến thức
về Angkor trở thành chính xác hơn, gây tổn thương cho thanh
danh của Delaporte, ngay trước khi ông từ trần năm 1925. Ông
có để lại một tập tường trình đăng dần từng kỳ "Hành
trình khám phá Đông Dương" trong tạp chí Le Tour du Monde (Vòng
quanh Thế giới), năm 1873, nhà xuất bản Hachette. Qua cuộc
triển lãm và cuốn catalô mang cùng tên "Angkor, nơi sinh nở
một huyền thoại - Louis Delaporte và Cam Pu Chia" (được giải
CatalPa 2013 Mention Spéciale) những nhà chức trách mong khôi phục
danh dự cho Delaporte. Họ muốn chứng minh phương pháp tiến
hành của ông có thể đánh giá là khoa học, cách thức mô
tả các công trình dựa lên những bằng chứng cụ thể nghệ
thuật và lịch sử thực sự. Để nhập đề cuộc triển
lãm, cùng được trưng bày những tài liệu, những tác phẩm
các hậu duệ của ông còn giữ, những bản báo cáo nổi tiếng
các phái đoàn, những ảnh bản gốc của Emile Gsell (1838-1879)
và những hình vẽ các công trình Angkor do chính Delaporte tự
tay thực hiện.
Trimurti
: Brahma, Vichnu và Shiva
Trong đạo Hindu, Trimurti,
ba thể dạng devanagari, theo tiếng phạn, là phần hiện
hình của thiên tính tối cao để chủ trì những trạng thái
của vũ trụ : Brahma, Vichnu, Shiva tượng trưng sáng tạo,
bảo quản và hủy diệt. Ba vị nầy có thể được trình
bày riêng biệt hay tập hợp trên một thân. Nếu họ biểu
thị vật chất, quán tính, thường họ được ghép thêm một
phụ nữ biểu thị năng lực, cử động. Ví dụ Lakshmi (thịnh
vượng) cặp đôi với Vishnu, Shakti (hình dạng) với Shiva,
Sarasvati (kiến thức) với Brahma. Mỗi vị có một hay nhiều
hóa
thân hay avatara, tiếng Phạn có nghĩa "xuống" hiểu
là "từ trời xuống", hiện thân của một vị thần trên thế
gian để đáp ứng một nhu cầu của nhân loại. Nhưng tất
cả các hiện thân không phải là hóa thân, mỗi một lúc có
nhiệm vụ khôi phục đạo lý dharma bằng cách thiết
lập những nguyên lý nhận thức thời đại mình hiện ra.
Trong nhiệm vụ bảo quản, Vishnu phải chăm nom làm sao cho sáng
tạo luôn được giữ thăng bằng với những phương tiện
con người, thần thánh nếu cần. Trong truyện Ramayana, ông
giúp Rama đánh thắng bọn quỷ sứ để lấy lại Sita. Thấy
vua voi Gajendra gặp khó khăn với con cá sấu, ông cũng ra tay
cứu giúp. Trong số mười hoá thân của Vishnu, Krishna, có nghĩa
là đen, xẩm, thật ra có da xanh, được xem là hóa thân đầy
đủ punavatara với tư cách là nguyên lý cuối cùng. Krisna
là con của ông Hoàng Vasudeva và bà công chúa Devali, sinh ra
ở Mathura. Theo truyền thuyết thì Krishna là từ một sợi tóc
của Vishnu mà ra !
|
|
Vishnu
cứu vua voi Gajendra
Thommanon
Louis Delaporte (1881-1882)
|
Vishnu
thắng bọn quỷ sứ Rakshassas
Angkor
Vat Louis Delaporte (1881-1882)
|
Krishna có một tuổi trẻ
dữ đội nhưng có đủ mánh lới để tránh được những
đòn của ông chú, vua Kamsa, luôn tin tưởng đứa con thứ tám
của Devali sẽ tai hại cho ngôi ông ta. Còn nhỏ, chàng ở với
bà mẹ nuôi, Yashoda, lúc chưa hết bú mẹ, cho nên chàng thường
được trình bày trong cánh tay Yashoda. Những hình ảnh thường
được thấy nữa là chàng đang bò gọi là Navanitakrishna,
hay nằm ngửa, bú ngón chân, mang tên Santanagopala đuợc
các bà mẹ tôn thờ để bảo vệ con mình. Ở Angkor còn có
một cảnh tượng nói lên vũ lực của chàng (Bhagavati Purana)
là lúc bị Yashoda phạt cột vào một cái cối vì đã ăn trộm
bơ và sửa trong trại bên cạnh. Muốn xê dịch, chàng phải
mang cối theo, khi đi qua giữa hai cây cổ thụ, cối kéo ngã
hai cây cho hiện lại nguyên hình hai đứa con của Kubera bị
Narada ếm cho đến khi Krishna đến cứu. Trai trẻ, Krishna sành
thổi sáo để quyến rũ bất cứ phụ nữ nào, có chồng hay
chưa chồng. Ông cũng rất nghịch ngợm với họ : chuyện
đươc kể nhiều nhất là khi thấy một đám con gái cởi áo
quần xuống sông tắm, ông lại lấy hết rồi trèo lên cây
ngồi trốn và chỉ chịu trả cho cô nào lại gần cầu
xin ! Thần thánh đã từng cảnh cáo Krishna phải rời
bỏ Dvaraka với tất cả dân cư không thì dòng dõi sẽ tàn
lụi. Thấy họ uống rượu và đánh nhau, Krishna cố gắng
khuyên răn nhưng không thành công, ông vào rừng trầm từ để
thử tìm giải pháp thì rủi có người thợ săn bắn vào gót
chân là điểm yếu cơ thể. Trước lúc từ giả cõi trần,
ông không quên dỗ dành anh thở săn đã vô ý bắn ông tử
thương.
|
|
Krishna
ở Lễ nước Dvaraka/Devarati
Angkor
Vat Louis Delaporte
(1881-1882)
|
Krishna
bị cột vào cối làm đổ hai cây
Angkor
Vat Sylvain Raffegeaud
(1890-1891)
|
Trong các nước Đông Nam
Á thuộc đạo Hindu, truyện thánh được nói đến nhiếu nhất
cùng với truyện Mahabharata là Ramayana. Được viết
thành sách bằng chữ Phạn giữa thế kỷ III trước và thế
kỷ III sau CN, sách kể chuyện sự lọt lòng và nuôi nấng
hoàng tử Rama, hoá thân thứ bảy của Vishnu, cuộc chinh phục
Sita và đám cưới với nàng. Sau đó Rama bị vua cha đày đi
Ayodhya, theo gót có Sita và em là Lakshmana. Ở đây, vua quỷ
Ravana cướp Sita đem về Lanka (thường được cho là đảo
Sri Lanka). Sau khi tìm kiếm, Rama tìm ra Sita và cứu ra khỏi
tay quỷ sứ nhờ sự giúp sức của Hanuman, đại tướng bầy
khỉ. Rama giết Ravana, về nước lên ngôi và trở nên một
ông vua khôn ngoan, đạo đức. Trong một phần phụ còn có
chuyện nghi oan Sita ngoại tình trong thời gian bị bắt cóc,
Sita buồn giận bỏ chồng đem con lại ở nhà Valmiki nhưng
vài năm sau oan được giải và Sita trở về lại với Rama.
Trong chiến trận Lanka đánh Ravana, Rama đứng trên Hanuman, đàng
sau có người em Lakshmana, xung quanh là đoàn binh khỉ đồng
minh. Ravana là ông vua-quỷ 10 đầu, 20 tay, rất hung dữ và
tàn bạo, lên ngôi sau khi giết anh vừa là vua hợp pháp Kuvera
xứ Lanka và chiếm lâu đài bay Pushpaka, được thành bất tử
nhờ cầu khấn Brahma 10.000 năm, không sợ bất cứ thần thánh
nào, nhưng kiêu ngạo trước con người thì không xin được
che chở. Đam mê phụ nữ, chỉ vì ham bắt Sita mà Ravana bị
tai hại. Đây ông muốn lay chuyển núi Kailasa, nơi Siva ngự
trị. Giúp sức cho Ravana có con quỷ Marica (Marricha), để Ravana
dễ bắt Sita, tự biến thành con nai lại quyến rũ Rama ra xa
và bị Rama bắn tử thương. Phía dưới, thần ái tình Kuma
dương cung bắn Siva. Thần dục tình Rati, vợ Kuma, khóc chồng
bị Siva biến thành tro.
|
|
Chiến
trận Lanka :
Rama
đứng trên Hanuman
Angkor
Vat Louis Delaporte (1873)
|
Vua-quỷ
Ravana
muốn
lay chuyển núl Kailasa
AngkorVat
Joseph Ghilardi (1881-1882)
|
|
|
Rama
bắn chết quỷ Marica hiện hình con nai
Angkor
Vat Sylvain Raffegeaud (1890-1891)
|
Kuma
bắn Siva -
Rati
khóc chồng Kuma biến thành tro
Sylvain
Raffegeaud(1890-1891)
|
Môt trong những cảnh tượng
giữ một chân đứng ưu việt trong thần thoại hindu là "Cảnh
nhào trộn biển Sửa" amritamanthana do những thần deva
và những quỷ asura khởi công trong mục đích chế tạo
mật bất tử amrita. Thuở khai thiên lập địa, thần
thánh cũng như quỷ sứ đánh nhau để làm chúa tể thế giới.
Thần thánh đuối sức, chịu thua, bèn lại cầu cứu Vishnu.
Vishnu đề nghị chúng hợp lực với quỷ sứ mới hòng chế
tạo được amrita để giải quyết. Cách thức là phải
bỏ nhiều cây thuốc xuống biển, lật đổ núi Mandara để
đặt lên trên chóp mai con rùa Akupara, một hóa thân của Vishnu,
và lần lượt mỗi phe kéo con rắn Vasuki, vua các loài naga,
để quay núi. Sau 1000 năm công sức, một số vật và nhân
vật huyền diệu đã được cấu thành : Kalakuta hay Hala-Hala
là
một chất độc vô cùng mảnh liệt mà Siva uống trước khi
rải khắp và tiêu diệt hoàn cầu, vài giọt
tràn ra ngoài, rắn rít và bò cạp liếm vào nên chúng có nọc
độc ; Surabhi là con bò đầy sữa ; Varuni là thần
rượu ; Parijata là cây thơm ; Chandra là mặt
trăng ; Uchaishravas là con ngựa trắng tổ tiên loài ngựa
với tóc xoăn bảy màu làm thành cầu vồng ; Airavata
là con voi trắng làm vật cưỡi cho Indra ; Apsara là những
nữ thần hạ đẳng ; Lakshimi là thần nhan sắc ngồi
trên hoa sen ; Kaustubha là ý thức không khuyết điểm,
châu báu trên ngực Vishnu và Krihna ; và Dhanvantari thầy
thuốc của những deva, tay cầm bình kumbha chứa
đựng mật amrita. Lập tức, lanh chân hơn các deva,
những asura cướp bình amrita nhưng Vishnu dưới
dạng Mohini, người đàn bà đẹp nhất hoàn cầu, lấy lại
và trao cho các deva. Từ nay bất tử các deva đẩy
những asura xuống âm phủ. Vài giọt amrita rơi
xuống Ấn Đô ngày nay thành nơi hành hương : Godavari ở Nasik,
Shipra ỏ Ujjain, ở Haridwar và ở Prayag hay Allahabad trên sông
Hằng Hà.
|
|
|
"Cảnh
nhào trộn biển Sữa"
Thế
kỷ XII Phái đoàn Etienne Aymonier (1882-1883)
|
Asura
lớn nhiều đầu nhiều tay nắm đầu hay thân con rắn Vasuka
|
Angkor
Vat Phái đoàn Louis Delaporte (1881-1882) Đổ khuôn Joseph Ghilardi
|
"Cảnh
nhào trộn biển Sữa"
Angkor
Thom Phái đoàn Lucien Fournereau (1888-1889) Đổ khuôn Joseph Ghilardi
Ở Angkor Vat, cạnh những
thần thánh, thường thấy có những nữ thần gác cổng hay
gác đền gọi là devata. Rất đẹp, cặp vú nổi trội,
mang nhiều đồ trang sức, quần sarong dài trang trí bông
hoa, mỗi bà khăn mũ khác, điệu bộ khác, y phục khác, luôn
ngậm miệng cười như phong cách Khơ me thời đó (nghe nói
chỉ có một bà cho thấy hàm răng), họ đếm tất cả là
1780 bà. Những bà dựng ở tầm tay có vú bóng nhoáng vì được
khách sờ nhiều, tin tưởng hưởng được hạnh phúc. Chữ
deva,
hay đầy đủ hơn devanagari, lấy gốc từ tiếng Phạn
div
có
nghĩa chói lọi, phát xuất từ chữ Au-Ấn deiwos cùng
nghĩa sáng rực, lóng lánh. Đạo Vệ đà xưa dùng chữ
deva
để gọi lên những thế lực hoạt động trong những hiện
tượng thiên nhiên hay tinh thần. Qua đạo Hindu, deva trở
thành
một chữ để chỉ những thần thánh nói chung. Nữ thần được
gọi là devi. Người ta thường lầm
devi với apsara
là những nữ thiên thần nhảy múa xuất thân từ "Cảnh
nhào trộn biển Sữa". Ở Angkor, apsara được hình dung
thành những nữ thần bay từng đoàn, mang nhiếu đồ trang
sức và nữ trang., tượng trưng thần thánh cho niềm vui , thú
vui xác thịt và tinh thần. Người ta bảo các bà biết 64 phương
cách để kích thích tình dục vì vậy khi một nhà tu khổ
hạnh đạt được nhiều quyền lực, thần Indra phái lại
vài apsara, không chóng thì chầy ông sẽ sa lưới và
mất hết quyền lực. Tục truyền các apsara từ nước
vượt lên để cám dỗ người trấn : ai gạt nó đi sẽ
thành điên, ai chấp nhận nó làm nhân tình hay làm vợ sẽ
thành bất tử.
Devata
Angkor
Vat Urbain Basset (1896-1897)
Aspara
Angkor
Vat Louis Delaporte (1873)
Angkor Vat, đền Khơ me
đẹp nhất, được xây dụng dưới thời Suryavarman II (1113-1145)
một ông vua chinh phục vừa là một nhà xây dựng lớn. Vào
đầu thế kỷ XII, tuy đạo Hindu còn thống trị, những biểu
tượng Phật giáo tăng gia, biểu lộ tính quan trọng của tôn
giáo nầy, cho đến cuối thế kỷ thì trở thành tôn giáo
quốc gia. Những tượng Phật ngồi thế thiền định samadhi
trên con rắn naga Mucilinda, một giai đoạn trong đời
sống đức Thích ca Mâu ni, đáp ứng những đặc tính phong
cách Angkor Vat thế kỷ X. Tục truyền đức Thích ca khi đang
mải miết trầm ngâm trong cuộc thiền định, suýt bị nước
hồ cuốn đi thì được con rắn naga Mucilinda cư trú
ở đấy, dang rộng những đầu quanh Ngài để che chở. Ngồi
trên lưng con rắn cuộn lại, Ngài trông như chễm chệ trên
ngôi. Hình ảnh nầy là một mẫu gốc đức Phật vì sau nầy
rất thông dụng trong nghệ thuật Angkor. Còn quan trọng hơn
khi nhiều vua tin tưởng hoàng gia là hậu duệ một hôn nhân
giữa một Bà la môn Ấn Độ và một nagini nữa người,
nửa rắn. Trong Phật giáo, bên cạnh đức Phật và đức A
Di Đà, nhân vật quan trọng bậc nhất là đức bồ tát Amoghapasa
Lokesvara hay Lokesvara, hiện hình của Avalokitesvara, nam hay nữ,
tức là đức Quan Âm hay Quán Thế Âm bên ta. Theo tiếng Phạn,
tên của đức bồ tát có nghĩa " chúa tể thế giới " lokesvara
mang một dây buộc chắc chắn có hiệu nghiệm amoghapasa,
luôn nắm trong tay là một quyền lực cứu vớt những sinh
mạng lạc lối. Đức Quan Âm cũng có định nghĩa cùng hướng
: hiện thân của lòng trắc ẩn, tính thận trọng, những đức
tính chính của đức bồ tát. Ngài có ngàn mắt để thấy
tất cả, ngàn tay để giúp mọi chúng sinh. Trong "phòng triển
lãm trruờng thực" còn có hình tượng một phụ nữ rất đẹp
gọi là Prajnaparamita hay Tara ( ?) xem như là hình dung của
Jayarajadevi, bà vợ thứ nhất của vua Jayavarman VII, một người
giàu lòng từ thiện luôn cứu dân độ thế. Để so sánh với
tượng đẹp cở nầy chỉ có thể đưa ra tuợng Chăm tìm
ra được ở Hương Quế, thế kỷ X.
Đức
Phật trên con rắn naga Phong cách Angkor Vat. Thế kỷ XII
Preah
Khan ở Kompong Svay Louis Delaporte (1873)
Lokeshvara
Bayon Angkor Thom
Phong
cách Bayon.Thế kỷ XII-XIII. Louis Delaporte (1873)
|
|
Jayarajadevi-Prajnaparamita
¨Phong cách Bayon
Cuối
thế kỷ XII-XIII, Angkor, Preah Khan
|
Hương
Quế (*)
Thế
kỷ X, Quảng Nam
|
Cómấy
đời vua Jayavarman sau cùng, tuy không phải thần thánh, cũng
đáng được đề cao trong lịch sử Angkor. Ngoài Jayavarman II
(802-?) thành lập Hariharalaya là thành cổ Angkor, có thành tích
đánh đuổi quân đô hộ Java, hai vị để lại tên tuỗi là
Jayavarman IV và Jayavarman VII. Jayavarman IV (928-941) lên ngôi ở
kinh đô Koh Ker còn gọi Chok Gargyar (Đảo Vinh Quang) được
xây dựng thành công sự 1200 m2 trong một diện tích 35 km2 với
nhiếu đền đài to lớn như phức hệ Prasat Thom tháp chóp
bảy tầng cao 30m. Một bảng khắc trên linga đặt trên
chóp bằng chữ Khơ me xưa kamrate? jagat ta Rajya chỉ rõ
"thần là đức vua ". Nhiếu tác phẩm nghệ thuật đã được
thực hiện như hình tượng Garuda nay dựng trước viện Bảo
tàng Quốc gia Căm Pu Chia. Kok Ker bị bỏ quên một ngàn năm
cho đến lúc Louis Delaporte và Étienne Aymonier phát hiện. Jayavarman
VII (1181-1201 hay 1218) là một Phật tử, nhà vua lớn cuối cùng
đế quốc Khơ me. Khi quân Chăm sát hại vua Yacovarman II và
kẻ chiếm đoạt Tribhuvanaditvavarman, ông chạy trốn và chỉ
trở về lại để đánh đuổi quân Chăm và vua Indravarma IV
ở một địa điểm sau nầy ông cho cất đền Preah Khan. Ông
lên ngôi "Hoàng đế vạn năng" và khôi phục uy quyền Khơ
me "thành công trả thù quân địch sau 18 năm dị hóa kiên trì
" theo một văn bản Trung Quốc. Sau đó, khoảng 1190, ông qua
thôn tính Champa, bắt bỏ tù vua Chăm, năm 1230 biến Champa thành
một tỉnh Khơ me, đồng thời mở rộng bờ cỏi Cam Phu Chia
qua Lào, Thái Lan. Ông xây dựng đền quốc gia Bayon ở trung
tâm kinh đô Angkor Thom, các đến Banteay Kdei phía đông, Preah
Khan phía bắc. Ông đưa lại đạo Phật đại thừa lên làm
quốc
giáo và những hình tượng đức Phật tươi cười bắt đầu
chớm nỡ khắp các đền miếu. Hình tượng chính ông cũng
là một mẫu Phật phúc hậu, dịu dàng gắn liền với vẻ
thẩm mỹ một thời nâng cao lý tưởng thanh thản của đạo
Phật. Là một ông vua có công giải phóng đất nước, vừa
là một vị suốt đời xây dựng, Jayavarman VII đánh dấu thời
đại ông và nhờ ông mà ta mục kích được ngày nay một
Angkor dù điêu tàn vẫn đồ sộ và vô cùng huyền diệu. Khó
hiểu là những hình tượng của ông đều bị đập vỡ...Delaporte
có công phục hồi hình tượng ông tìm ra được thành hai
mảnh (đầu năm 1958, thân năm 2000, thiếu tay, thiếu chân)
ngày nay được xem là một kiệt tác tuyệt đối của nghệ
thuật toàn năng. Một bức đổ khuôn tuyệt vời nữa là trán
tường cửa giả chính phòng "Vũ nữ" Ta Prohm, hình dung một
giai đoạn đời sống jataka đức Phật, còn đẹp hơn
nguyên bản đang bị hư hỏng, hiện đuợc giao cho Archaeological
Survey Ấn Độ trùng tu : có lẽ đây là một đền Jayavarman
VII xây dựng để thờ bà mẹ đã mất và để cung hiến cho
đức Bát Nhã Ba la Mật Đa Prajbaparamita (Hoàn thiện Đạo lý).
|
|
Jayavarman
IV (?)
Prasat
Thom Kok Ker Tk. X
|
Jayavarman
VII (?) Phong cách Bayon , Preah Khan Kompong Svay Tk. XII-XIII
|
Louis
Delaporte (1873)
(*) Ảnh chụp ở
Cuộc triển lãm Những kho tàng nghệ thuật Việt Nam
- Điêu khắc Champa tại viện bảo tàng Á Đông Guimet, Paris
2005-2006. Tượng hiện trưng bày ở Viện Lịch sử TPHCM.
Tham khảo:
Angkor - Naissance d�un mythe - Louis Delaporte et le Cambodge, sous
la direction de Pierre Baptiste et Thierry Zéphir, Gallimard/Musée national
des arts asiatiques Guimet 2013-2014
Thành
Xô mùa xuân Giáp Ngọ 2014
Angkor
Trán tường cửa giả chính phía bắc phòng "Vũ nữ"
Ta Prohm
Lucien
Fournereau Sylvain Raffegeaud (1888-1889)
|