Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[
Tác
giả ]
|
|
Pont-Aven
là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Finistère miền Bretagne,
nằm nép mình ven rừng Amour, trên bờ con sông Aven trước khi
đường nước mở rộng thành cửa sông ria thông vào
Đại Tây Dương. Cách đây ba trăm năm, làng đang còn là một
xóm nhỏ 720 dân, nhưng có đủ thợ mộc, thợ may, thợ dệt,
thợ khóa, thợ hớt tóc, thợ đóng dày, thợ xay bột, thợ
sửa đóng cối xay, nhà trọ, quán ăn, quán nước, hai người
hành nghề luật, một sĩ quan y khoa nhưng không có thầy dạy
học. Về việc đồng áng làng có khoảng 20 nông dân và người
làm công nhật, trong ngành biển thì làng có gần 30 thủy thủ.
Khi xuyên thị trấn, sông còn là một con lạch, nước luồn
chảy giữa những hóc đá gây nên những ghềnh thác tuy tí
hon cũng đủ không cho thuyền bè qua lại. Truớc đây nước
lạch chảy quay những bánh cối xay nên Pont-Aven được lưu
truyền là " làng có tiếng 14 cối xay,15 nhà ở ". Với thời
gian dần dần Pont-Aven thâu tóm những vùng đầt hoang lớn
rộng làng Nizon kế cạnh và năm 1954 hai làng sáp nhập với
nhau. Ngày nay thị trấn có nhiều nhà hơn nhưng hết còn có
cối xay, nếu không là để lại vài tên quán ăn và... một
bánh xe để làm vui mắt khách du lịch. Từ giữa thế kỷ
19, nhờ phong cảnh đẹp, khí hậu ôn hòa, lại tương đối
không quá xa Paris, Pont-Aven đã là nơi thu hút khá đông du khách
nghỉ hè, tham quan. Thêm vào đó, phong cách đồng quê, tiếng
nói líu lo, áo quần truyền thống màu sắc vui mắt đóng góp
vào cuộc hấp dẫn những người mong tìm mới lạ. Ngày nay,du
lịch đã nuôi sống cả vùng.
|
Trong số sản phẩm
địa phương làm nổi tiếng Pont-Aven có loại bánh quy cứng
gọi là "galettes de Pont-Aven" (bánh kẹp Pont-Aven) bán qua nhãn
hiệu
Traou-Mad nghĩa là những "món ngon" (tương tự mè
xửng Huế). Làm bằng bột mì, trứng và bơ, thêm vào một
vài gia vị gia địa phương, và nhất là với một phương
pháp chế biến độc đáo, những bánh kẹp nầy ra đời gần
được một thế kỷ, nay đạt đỉnh tối cao tinh vi trong ngành
bánh trái cổ truyền. Nhà sản xuất lớn nhất ở Pont-Aven
là nhà hàng "bánh quy Trao Mad" được thành lập từ năm 1920,
nay có đến 75 nhân viên phục vụ. Mẫu đặc biệt nhất của
nhà hàng là chiếc bánh
sabré (bánh xốp, nguồn gốc
thị trấn Sablé-sur-Sarthes) được ông Alexis Villain chế tạo
năm 1950, hợp thành với bánh kẹp và bánh xèo một bộ ba
bán rất chạy. Nếu "galettes de Pont-Aven" được nổi tiếng
nhờ một cuốn phim mang cùng tên, một loại bánh khác mà ai
đã đi viếng vùng Bretagne cũng không thể nào quên được
là
kouign-amann (có nghĩa bánh-bơ). Bánh được ông Yves-René
Scordia pha nấu năm 1860 ở thành phố Douarmenez với bột mì,
bơ tươi và đường nhồi cuốn lại với nhau : khi đem đun
nóng, hỗn hợp bơ-đường thấm qua bột, chảy ra ngoài thắng
thành caramen nên bánh mềm bên trong mà giòn tan bên ngoài. Cũng
nên biết là chiếc bánh nầy được chế tạo trong một trường
hợp đặc biệt. Hồi ấy bơ có nhiều mà bột có ít, đằng
khác ông Scordia lại cân lầm nên thành phấn bánh bất thường:
100g bột, 300g bơ, 300g đưòng, ví chi đổ đi, ông vẫn cho
vào lò và ngày nay ta hưởng được một chiếc bánh ngon !
Nắp hộp bánh |
Nhưng thật tình,
những chiếc bánh dù có ngon đến đâu cũng khó lòng một
mình đưa được Pont-Aven lên đến mức tiếng tăm ngày nay.
Bắt đầu từ 1870, cùng với khách du lịch, một số họa
sĩ, đặc biệt dân Mỹ, về đây tìm nguồn cảm hứng. Có
sông, có nước, mây trời thơ mộng, lại thêm hoa tươi cỏ
thắm, con người hiền hậu, các họa sĩ đua nhau đăt giá
tô màu. Trong các vị ấy có Armand Jobbé-Duval lảnh đạo một
trường phái mới gọi là tổng hợp (synthétisme). Trường
phái nầy một lúc được liên hợp với trường phái ngăn
vách (cloisonnisme) trước khi hòa mình vào trường phái tượng
trưng (symbolisme). Tôn chỉ của trường phái là cảnh vật
bên ngoài phái có hình dáng tự nhiên, nội dung bên trong phản
ảnh tâm tình của nghệ sĩ và một đại thể trong sáng bao
trùm các đường nét, màu sắc, thể dạng. Dần dần nhiều
họa sĩ khác như Emile Bernard, Paul Sérurier, đặc biệt Paul
Gauguin,...lại tiếp sức, phát triển trường phái thành một
lối vẽ gọi là "Ecole de Pont-Aven" (Trường phái Pont-Aven).
Sinh
ra ở Paris năm 1848, từ nhỏ Gauguin theo cha chạy loạn về
quê mẹ bên Pérou, nhưng rủi cha chết sớm, năm 7 tuổi ông
cùng mẹ và em về lại Pháp. Mấy năm lưu vong ở Nam Mỹ ghi
lại trong lòng ông một khiếu phiêu lưu và ưa chuộng ngoại
lai. Năm 17 tuổi, ông sung vào làm thủy thủ hàng hải và vui
mừng trở lại Rio-de-Janeiro, quen thuộc với môi trường đã
sống thời nhỏ. Trở về lại Paris, sau một thời gian làm
đại lý hối đoái đên năm 1882, ông muốn chỉ sống vì hội
họa. Được Gustave Arosa hướng dẫn, ông bắt đầu vẽ không
chuyên, loại họa sĩ chủ nhật tuy đã tỏ ra có tay nghề.
Trong một lúc, ông vẽ theo lối Corot nhưng sau đó ông được
Pissarro, làm quen ở nhà Arrosa, chỉ dẫn về kỹ thuật và
tinh thần
trừu tượng (impressionniste).
Hoa trên cầu |
Từ 1874 đến 1886,
ông luôn theo bước trường phái nầy và triển lãm chung năm
lần với nhóm trừu tượng. Trong cuộc triển lãm năm
1881, bức tranh của ông Etude de nu (Nghiên cứu khỏa thân)
hay Suzanne cousant (Suzane đang khâu) được báo chí
khen ngợi. Năm 1873, ông cưới bà Mette-Sophie Gad, người Đan
Mạch, sinh cho ông năm đứa con. Mặc dầu tranh của ông thuờng
được các họa sĩ mến chuộng, ông bán khá ít và sống rất
khít khao. Ông đem gia đình về ở Rouen nhưng vẫn thiếu thốn,
ông lại đưa vợ con qua Đan Mạch ở với gia đình vợ. Không
hòa thuận với họ, ông trở về lại Paris với một đứa
con trai, Clovis. Nhờ ông bạn Schuffenecker giúp đở về mặt
tài chánh, ông có thì giờ hơn để vẻ. Từ nay, ngoài Pissarro,
ông còn được Degas hướng dẫn, bênh vực và, mặc dù một
mối bất hòa nhỏ, mua nhiều tranh của ông. Các tác phẩm
của ông rất gần với tranh Pissaro. Qua họa sĩ nầy, ông mau
tiến bộ trong tư tưởng trừu tượng, từ sắc thái
ánh sáng ngoài trời đến độ sáng màu sắc, nhất là ra khỏi
vòng phụ thuộc các tập tục, qui ước. Người ta thường
nhận xét trong tranh của ông, những bức vẽ tĩnh vật gợi
lên những nét của Manet, những cử chỉ hằng ngày may khâu
biểu lộ cách nhìn thực tế của Degas, sắc thái ánh sáng
và bóng tối phong phú khiến người xem so sánh với những
tác phẩm của Renoir.
|
Tháng tư 1887, ông
cùng họa sĩ Charles Laval đáp tàu đi Panama, làm việc một
tháng trên kênh rối qua Martinique. Từ tháng sáu đến tháng
mười, tuy sống rất thiếu thốn ở Le Carbet cách xa Saint-Pierre
hai cây số nhưng cảm xúc phong cảnh hữu tình, ông vẻ luôn
một liúc khoảng mười bức tranh để lại một ấn tượng
vô cùng sâu đậm trong lòng người bản xứ. Những tranh nầy
hiện được triển lãm ở viện bảo tàng mang tên ông ở
Le Carbet. Nhưng thiếu tiền lại bị bệnh sốt rét và kiết
lỵ, ông cùng Laval hồi hương tháng mười một. Đầu năm
1888 ông trở lại Pont-Aven lần thứ hai, luôn trọ tại quán
Gloanec. Hồi ấy cạnh quán ấy có một cô gái có tiếng là
đẹp nhất nhì trong vùng, đã có chồng, tên là Marie-Angélique
Satre. Ông cặm cụi vẽ cho cô một bức chân dung đặt tên
La
Belle Angèle (Người đẹp Angèle) và vào khoảng mùa thu
1889, ông đem lại biếu. Khi cô gái thấy bức tranh trong lúc
ông đang đi quanh phòng tìm chỗ treo thì thốt lên : Tởm
quá ! và yêu cầu ông đem đi ngay, bảo cô không biết gì
về hội họa và cô không thấy bức tranh ấy treo trong nhà
ở một nơi như Pont-Aven. Gauguin rất buồn và thất vọng vì
nghĩ chưa bao giờ thực hiện thành công một bức chân dung
như vậy. Bức tranh hình dung một cô bretonne ngồi, mặc áo
ngày lễ ở Pont-Aven màu đen có nhiều mảnh thêu, khăn đầu
và cổ áo trắng, tạp dề hoa cà, đeo thánh giá trước ngực,
hai tay chắp nhau. Hình được đặt trong một đường vòng
theo kiểu các tranh khuôn rập Nhật Bản rất thịnh hành hồi
đó, nổi bật trên một nền xẩm tô điểm hoa hồng. Sau nầy,
Théo Van Gogh cho cô gái có vẻ tươi tắn tuy hơi quê mùa, đánh
giá là một bức tranh đẹp của Gauguin. Tranh được Degas mua
năm 1891 với giá 450 quan và giữ cho đến chết. Hiện tranh
được trưng bày ở viện Bảo tàng Orsay tai Paris. La Belle
Angèle sau nầy được đặt tên cho một chiếc tàu đóng
năm 1991, phiên bản chiếc Utile ba cột buồm thanh nhã
cuối thế kỷ 19 kích thước khiêm tốn để dễ đi vào các
cảng nhỏ. La Belle Angèle cũng là tên hội làm sống
lại những thuyền bè xưa.
Quán cối xay |
Bức tranh La
Belle Angèle là một bước tiến của Gauguin trên đường
rời bỏ phong cách trừu tượng để dấn thân
vào các phong cách
tổng hợp, ngăn vách. Chịu ảnh hưởng
của Emile Bernard, họa sĩ tìm một cách diễn đạt khác : giản
dị hóa thể dạng, loại bỏ mọi điểm nhỏ vụn vặt, chỉ
giữ những chi tiết cần thiết qua kỹ thuật những đường
viền quanh và màu sắc phẳng lì. Bức tranh La vision après
le sermon (Ảo ảnh sau thuyết giáo) thực hiện năm 1888 ở
Pont Aven là tác phẩm đầu tay của ông để thử dẫn nhập
vào tranh một họa tiết tưởng tượng trái với nguyên tắc
thực tại chặt chẽ hiện hành hồi đó. Tháng mười cùng
năm, Gauguin lên đường đi Arles để gặp Van Gogh từng làm
quen mấy năm trước. Cuộc gặp gỡ hồ hởi giúp tăng sức
khỏe của Van Gogh nhưng hai tháng sau, hai họa sĩ bất bình
với nhau về phương cách làm việc cũng như về ý niệm hội
họa, và vào ngày 23 tháng chạp, Van Gogh cầm dao dọa Gauguin,
rút cuộc cắt một mảnh tai mình ! Rất có thể rượu mạnh
absinthe đã chịu một phần nào trách nhiệm....Ngay sau đó
Gauguin rời Arles. Tuy nhiên, những tranh sau nầy của ông, những
bức Christ Vert (Đấng Ki Tô Lục), Calvaire Breton (Bức
Thánh giá xứ Bretagne)vẫn còn thấm nhuần tinh thần tâm lý
Van Gogh. Chính vào năm 1889, nhân Hội chợ Quốc tế Paris, trong
khuôn khổ cuộc Triễn lãm ở Café Volpini, Gauguin khai sinh Trường
phái Pont-Aven. Hiện nay, ở Pont-Aven còn tồn tại một trường
mang tên Pont-Aven School of Contemporary Art (PASCA)
chủ trương một chương trình mỹ thuật hiện đại phong phú
trình bày trong nhiều phòng. Còn ở Nizon, bắt đầu từ 1992,
Trường
Nizon
hay Le Hangar't phát triển quanh kế hoạch bảo
quản ký ức hình ảnh làng xưa. Gauguin còn trở lại Bretagne
năm 1890, lần nầy về Pouldu cạnh Pont-Aven, trọ tại quán
La Buvette de la Plage của bà Marie Henry, cùng với các họa sĩ
Meyer de Haan, Sérusler, Filiger.
Tranh trên tường |
Qua tháng ba 1891,
nhà
thơ Mallarmé chủ tọa môt bửa tiệc mừng Gauguin vào lúc ông
đang nuôi mộng phiêu lưu vào những chốn xa xôi như Java, Bắc
Kỳ, Tahiti. Thuộc địa Pháp, hòn đảo nầy đã từng được
Bougainville, Pierre Loti ca ngợi, xem như là chồn bồng lai nguyên
thủy. Gauguin hy vọng tìm ra ở đây điều từng mong muốn
: một cảnh thiên nhiên sơ khai để trau dồi cho chính mình
và cho nghệ thuật Nhờ tiền bán bức
La belle Angèle
cho Degas và một số tranh khác, nhờ tiền chính phủ phụ cấp
cho một cuộc khảo cứu phong tục, ông lên đường đi Tahiti.
Trong thời gian lưu trú thứ nhất (1891-1893), ông tỏ ra một
nhà dân tộc học chăm chú, khảo cứu sâu xa văn hóa maori
sau nầy thể hiện trong các bức tranh của ông. Bị nét duyên
dáng mê hoặc của những phụ nữ bản xứ quyến dũ, ông
thực hiện bức
Océanie paradisiaque (Đại Tây Dương thần
tiên). Với một phong cách thô sơ, một cách sử dụng khác
thường màu sắc, ông thành công vượt qua những gò bó của
kỹ thuật hội họa Tây phương : nền đất phẩm tía và hoa
cà trong Paroles du diable (Những lời nói của quỷ sứ),
tường một màu vàng phía sau trong Fille à la mangue
(Cô
gái trái xoài),...Tháng sáu 1893, ông rời Tahiti để trở lại
tháng tám. Cùng năm, ông triển lãm tại phòng bày bán Durand-Ruel
những tranh vẽ ở Tahiti nhưng thất vọng trước những lời
bình không tán thưởng trong báo chí. Qua tháng chín, ông quyết
định viết cuốn sách
Noa Noa (tiếng Tahiti có nghĩa tỏa
hương thơm) để giải thích những bức tranh ấy. Năm 1894
ông trở lại Pont-Aven một lần cuối cùng. Lúc bấy giờ thị
trấn mùa hè lúc nhúc cả trăm họa sĩ, điều hiếm có vào
cuối thế kỷ 19. Tháng bảy 1895, Gauguin lấy tàu từ Marseille
đi Papeete, quyết định sống luôn ở vùng Iles des Marquises
(Đảo các Hầu tước). Ông mất ngày 8 tháng năm 1903 ở Hiva
Oa (tên một trong các đảo ấy), thọ 55 tuổi, tại chiếc
lều mang tên "La Maison du Jouir" (Nhà Hưởng thụ).
Paul Serusier Paul Gauguin sống một cuộc đời tương đối ngắn tận tụy với hội họa, cho hội họa. Đối với ông màu sắc là cốt yếu. Nghe ông bảo "màu sắc là rung cảm cũng như âm nhạc", ta hiểu cách vận dụng từ sắc vàng nước chanh qua màu chàm tươi thắm, cách sử dụng lối biến chuyển từ màu lục cao qua màu xanh trầm, độ sâu của màu đất son từ nâu vàng qua nâu đỏ, những hòa âm phức tạp bị khổ độc xâu xé,...và ta muốn nghe bức tranh reo vang như một bản hòa tấu mãnh liệt. Ngày nay, đi dạo quanh Pont-Aven, dọc theo bờ lạch Aven phủ khắp đầy hoa muôn màu muôn sắc, ngay cả trên các chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua lạch, khách không sao không nhớ lại Paul Gaugin với các bạn họa sĩ một thời đã tung hoành trong cái làng quê nhỏ nhắn hữu tình nầy. Đặc biệt vài chiếc cầu nhắc lại những tên cối xay nay sửa sang lại thành quán ăn : Poulguin, Rosmadec,...Riêng cối xay David được Gauguin vẽ thành tranh. Hiện gần một trăm tấm của nhiếu họa sĩ được trưng bày trong viện bảo tàng thị trấn. Chỉ có Gauguin được dựng tượng giữa công trường ở trung tâm thị xã. Và cách đó vài trăm thước còn thấy tấm bảng đề tên quán cũ Pension Gloanec, nơi Gauguin đã trú ngụ và cũng là nơi khởi đầu chuyện tấm tranh Người đẹp Angèle ở Pont-Aven. (*) tranh lấy trên
mạng, chụp trên nắp các hộp bánh hay trên các bức tường
thị trấn
|
|
oui