Chim
Việt Cành Nam [
Trở Về ]
[ Trang chủ ]
[
Tác
giả ]
|
Bài và ảnh Võ Quang Yến |
Nằm
thu gọn trong một thung lũng nhỏ hình vỏ sò vùng Rouergue chiếm
gần trọn tỉnh Aveyron, phía nam miền Auvergne, được cơ quan
Unesco ghi vào danh sách các Di tích Quốc tế trên đường Saint-Jacques
de Compostelle, Conques là một làng xếp hạng trong bản các "Làng
Đẹp nhất nước Pháp". Đứng trên đồi cao nhìn xuống, nổi
bật trong những mái nhà lúc nhúc là nhà thờ lớn với đàng
trước hai lầu chuông cao. Lúc trước ở đây là một nơi
tĩnh mịch thường được các nhà tu hành ưa chuộng. Vào thế
kỷ 8, một ẩn sĩ tên Dadon hay Datus (viết tắc tên La Tinh
Deodatus, có nghĩa Người hiến thân cho Chúa) đến trước
một nguồn suối, bây giờ gọi là Fontaine de Plo, cảm kích
phong cảnh hữu tình, chọn nơi dừng chân, tiện bề trầm
tư, mặc tưởng giữa đám chim chóc, thú rừng. Vỏ sò theo
tiếng La Tinh là concha, tiếng Occitan có tên conca
nên nơi ông chọn lựa được gọi là Conques. Sau đó, một
ẩn sĩ sùng đạo khác, Medraldus, lại chia sẻ cuộc sống định
tâm với Dadon. Tiếng tăm thần thánh của hai ông không mấy
chốc vang dội khắp vùng, nhiều tu sĩ lại nhập cuộc và
dần dần một tu viện dòng Bénédictin (thánh Benoït) được
dựng lên. Vào lúc nầy, Dadon tự nghĩ nhiệm vụ mình đã
xong, đằng khác luôn trung thành với lý tưởng sinh sống đơn
độc, ông nhường sự lãnh đạo tu viện cho Medraldus và về
lưu trú ở thung lũng Dourdou gần đó, nơi sau nầy sẽ thành
lập làng Granvabre.
|
Năm 866, nhờ những
thánh tích của thánh Foy dành dật từ Agen đem về, Conques
trở nên một trung tâm hành hương trên đường Saint-Jacques
de Compostelle, cho nên có tên nhà thờ Sainte-Foy. Tục truyền
vào thế kỷ 3, cô bé Foy con một công chức vô thần, nhờ
bà vú hướng dẫn, chịu nhận rửa tội. Mặc dầu được
dụ dỗ, bị dọa nạt, cô luôn giữ vững lòng tin và bị
viên Thống đốc Aquitaine Dacien kết tội thiêu sống nhưng
khi cô lên hỏa đàn thì một trận mưa dập tắc lửa. Tuy
vậy, cô vẫn bị chém đầu cùng với cô em. Lòng can đảm
và tính cương trực của cô Foy khuyến khích những người
có đạo theo gương, không sợ tử vì đạo mà bỏ đi, đồng
thời quy nạp theo đạo một số binh lính vô thần. Cô đã
thực hiện ba tâm lực lớn nhất của Công giáo : đức tin,
hy vọng và từ thiện.
Bài thơ thánh Foy bằng tiếng
Occitan thế kỷ 11 đã từng ca ngợi :
Một đất nước vô
cùng may mắn
|
Hai thế kỷ sau, đồng
thời với tu viện, làng Conques trở nên một thị trấn trù
phú và trong Cuốn sách các phép lạ thánh Foy, tác giả
Bernard d'Angers miêu tả một thành phố quan trọng, mở rộng
ra lên đồi bao quanh tu viện. Sách còn nói đến một ngành
thương mãi phát đạt bán sáp và đèn cho khách thập phương.
Quán trọ, quán ăn cũng là một mối lợi tức đáng kể vì
các tu sĩ không thể bảo đảm lương thực và phòng nghỉ
cho tất cả khách hành hương. Trong ngành xây dựng nhà thờ,
tu viện, thành lũy, cửa ô,...nếu các thợ đẽo đá, thợ
chạm gỗ từ xa mời lại, nhân công, thợ đào đất được
tuyển mộ tại chỗ cống hiến một số công ăn việc làm
cho dân bản địa. Năm 1341 Conques sổ sách kê 730 hộ gồm
có khoảng 3000 nhân mạng, sầm uất hơn nhiều cái làng nhỏ
bây giờ. Và tất cả dân cư nầy sống quanh tu viện với
một kiến trúc tất nhiên thiết dụng đáp ứng hai nhu cầu
tiếp đón quần chúng hành hương đồng thời đảm nhận trong
nhà thờ mỗi ngày bảy lần các buổi lễ từ kinh mai đến
kinh tối, đúng theo nghi thức của dòng thánh Benoït. Nơi Dadon
chọn lựa trước kia đúng là chỗ để xây dựng một nhà
tu nhỏ bé, khổ hạnh, bây giờ chỉ mở rộng ra thành được
một nhà thờ thu hình : hậu cung không sâu, gian giữa ngắn
(20,70m) đối với một cánh ngang tầm rộng ít thấy (35m).
Để bù vào kích thước nhỏ bé ở mặt đất, nhà thờ chỉ
có thể phát triển lên chiều cao (22m), cao ngang hàng với những
nhà thờ dài gấp đôi trong vùng. Trong thực tế, ba nhà thờ
đã tiếp tục nhau mọc lên. Cái thứ nhất xây dựng vào khoảng
cuối năm 800 là để thờ Chúa Cứu Thế. Khi thánh tích của
thánh Foy được đem về đây, vì khách thập phương quá đông,
vào giữa thế kỷ 10, trưởng tu viện Etienne cho xây một nhà
thờ lớn hơn, tồn tại không được một trăm năm. Qua thế
kỷ 11, với đoàn khách hành hương Saint-Jacques de Compostelle
dồn dập đổ xô, trưởng tu viện Oldoric bắt đầu thực
hiện nhà thờ tu viện phong cách roman ta thấy ngày nay, thường
được xem là một kiệt tác miền nam nước Pháp. Bắt đầu
với phần dưới mặt ngoài gian giữa, nhà thờ được mở
rộng ra hướng tây để kết thúc sau ba phần tư thế kỷ,
với nhiều lúc gián đoạn, dưới thời trưởng tu viện Boniface.
Sau Cách Mạng, nhà thờ bị bỏ rơi, may nhờ có nhà văn Prosper
Mérimée, hồi ấy là thanh tra các Di tích lịch sử can thiệp
tác động, nhà thờ mới được trùng tu từ năm 1837. Viếng
nhà thờ Conques ngày nay, khách không sao dửng dưng được trước
kho tàng kim hoàn những hòm thánh tích bằng vàng, bạc, đá
quý, men khảm. Người yêu chạm trổ mặc sức chiêm ngưỡng
hơn 300 mũ cột với đủ loại trang trí, từ hoa, lá qua thú
vật, đến những cảnh tượng hàng ngày hay nguồn gốc tôn
giáo.
Ô trán nhà thờ Sainte-Foy ở Conques |
Nhưng tức khắc đập
vào mắt khách đến viếng nhà thờ là cổng vào với ô trán
khổng lồ (rộng 6,75m, cao 3,62m) trình bày 124 nhân vật sắp
trên ba tầng (thiên đàng, trần thế, địa ngục hay nơi chuộc
tội
tartare) hoàn toàn được bảo quản tốt đẹp. Với
thời gian, màu sắc đã bị phai lạt ít nhiều, nhưng nhìn
kỹ cũng còn thấy vài vết làm nổi bật những nét chạm
trổ, màu xanh trội nhất ở chốn thiên đàng, các màu đỏ,
son nơi địa ngục. Ô trán đặt cách mặt đất chỉ 3,60m,
khá thấp để có thể nhận rõ các chi tiết mặc dầu số
nhân vật phong phú, những cảnh tượng nhiều dáng vẻ. Nếu
tầng trên cùng dành cho các thiên thần, tất cả xếp đặt
quanh đức Chúa Cứu Thế trong một khung hình bầu dục mandorle
ở tầng giữa, thanh thản, không nghiêm nghị, chẳng yếu đuối,
hai mắt một thoáng xa vời nhìn thẳng ra đằng trước, mình
phủ một tấm quàng vai pallium hở bên mặt, hai tay phác
họa một cử chỉ tín hiệu ít thấy trong khoa tranh ảnh các
ô trán nhưng rất quan trọng : tay mặt hướng lên cao như được
kéo lên trời trong thời kỳ Thăng thiên, cũng là để
đón nhận những ân huệ của Chúa ; tay trái ngã xuống đất
tỏ lời từ biệt vì Ngài sẽ trở lại, nhưng bàn tay ngửa
ra cũng có nghĩa là để chia sẻ ân huệ với những ai cần
vì Ngài sẽ trở lại để cứu vớt chứ không phải
để phán quyết : vinh hồi và cứu thế. Cử chỉ
nầy gợi lên sự song tính của đấng Christ, vừa là thần
thánh, vừa là hóa thân. Hai chân đặt trên một cái bệ nghiêng
xuống âm phủ nhắc lên chuyến xuống cõi chết trước khi
sống lại, nghĩa là Ngài mang cả ơn giải thoát xuống địa
ngục. Giêsu mất đi, xuống địa ngục, sống lại để
lên trời, rồi trở về trần xét xử người sống và người
chết. Vào thời roman, phán quyết chưa phải là một xét
xử mà là sự hiện hình một đấng Christ siêu việt, chúa
tể cả cái sống lẫn cái chết, vị cứu tinh những ai tin
tưởng ở Ngài. Đây ta đứng trước một đấng Christ thắng
trận, trong dáng vẻ lộng lẫy huy hoàng một vị hoàng đế
La Mã, vừa là nhà vua vừa là quan tòa, chễm chệ trên một
chiếc ngôi đầy sao bao quanh, dưới chân có hai thiên thần
cầm nến soi sáng địa cầu. Người Pháp thường tôn vinh
Ngài là le Christ en Majesté (Đức vua Christ) ngồi trong
một ô trán mang tên Phán quyết cuối cùng (Jugement dernier)
trong Phúc âm theo Matthieu, bên tay mặt là những vị được
ân sủng ở Thiên đàng, bên tay trái là những kẻ bị tội
về Địa ngục.
|
Bên tay mặt Ngài, phần
dưới là các vị cơ sở theo kinh Cựu ước : những nhà tiên
tri và những giáo trưởng trước công nguyên ngồi xếp hàng
từng cặp dưới sáu vòm, bảy cột họp chung thành mái đền
Giêrusalem ở thế gian, trong một khung gọi là minh phủ limbe.
Ở vòm giữa là Abraham, gia trưởng hê brơ, một nhân vật
quan trọng kinh thánh, hai bên đứng hai đứa trẻ đại diện
cho con cháu là Jacob và Isaac. Vòm kế bên mặt là Moïse đặt
tay lên Aaron để tấn phong vào chức giáo sĩ , vòm cực mặt
hai vị tiên tri Zacharie và Ezéchiel. Ba vòm bên mặt Abraham dành
cho ba cặp Malchisédech và Josias mang bình rượi lễ, Esther vợ
vua xứ Perse đã cứu dân tộc của mình và Hoàng hậu Saba
người yêu của vua Salomon, Maria và Marie de Magdala mang một
cuốn sách mở rộng. Bốn bà sau nầy đều đứng chứ không
phải ngồi như những giáo trưởng trước. Trên khung minh phủ
là một khung hình tam giác : bên mặt thánh Foy chắp tay quỳ
gần chạm bàn tay của Chúa Trời, bên trái hai vòm trình bày
một bình rượu lễ trên bàn thờ và một chiếc ngôi trống
là chỗ của đấng Christ chủ tọa buổi ban thánh thể, vài
xiềng xích treo trên xà vì thánh Foy được xem là vị ân nhân
giải phóng tù tội. Một khung hình tam giác cạnh bên trình
bày cuộc đón tiếp những người được chọn vào Thiên đàng.
Maria và Marie de Magdala - Esther và Saba - Malchisédech và Josias - Abraham và Jacob, Isaac - Moïse, Aaron - Zacharie và Ezéchiel |
Cũng bên tay mặt của
Ngài, phần trên là 13 vị được ân sủng, dẫn đầu có thánh
Maria, mẹ Giêsu, đứng trước, hai tay chắp lại với nhau,
những ngón tay chạm vào những làn sóng từ khung bầu dục
tỏa ra, giữ vai người cầu kinh có nhiệm vụ can thiệp giùm
với Ngài ; đứng sau có thánh Pierre, người sáng lập Giáo
hội, tay cầm chìa khóa mở cửa Thiên đàng ; cả hai đều
có vầng hào quang quanh đầu ; ẩn sĩ Dadon, người khai trương
nhà thờ ; cả ba có kích thước tương đối lớn, đắm mình
trong một bầu sóng thần thánh. Theo sau là những vị có công
đức với nhà thờ, kích thước càng xa càng nhỏ lại, phần
lớn trình bày nhìn nghiêng ba phần tư : trưởng tu viện Oldoric,
người xây dựng nhà thờ ta thấy ngày nay ; vị nầy tay trái
cầm gậy quyền, tay mặt cầm tay dẫn vua Charlemagne là người
đã đóng góp nhiều cho nhà thờ ; đi kèm với nhà vua carolingien
nầy là người con, vua Louis le Pieux, và người cháu Guillaume
de Gellone ; theo sau là hai tu sĩ đại diện cho Giáo hội, một
vị mang một cuốn sách là kinh Phúc âm, vị kia mang Bảng Luật
biểu lộ sự liên tục giữa hai kinh Cựu uớc và Tân ước
; sau đó là các thánh Jérôme, Antoine, Foy, và Marie de Magdala,
vị nầy ngồi mặt ngoảnh nhìn trở lại. Những vị nầy
được sắp đặt theo một thứ tự niên đại : ở giữa là
trưởng tu viện Oldoric (1130-40) xem như là hiện tại, hai bên
lui về đầu công nguyên, bên mặt tu sĩ Dadon (năm 750), rồi
thánh Pierre (năm 64), sau cùng Maria (năm 0), bên trái Charlemagne
(800), thánh Jérôme (400), thánh Antoine (350), thánh Foy (303), sau
cùng Marie de Magdala (0).
từ trái sang mặt : Marie de Magdala, các thánh Foy, Antoine, Gérôme - hai tu sĩ, Guillaume de Gellone, Charlemagne, Louis le Pieux, Oldoric - Dadon, thánh Pierre, thánh Marie |
Bên tay trái Ngài, phần
trên có bốn thiên thần : hai vị bên trái mang một cuốn sách
và một bình xông hương dành cho những người công minh chính
trực, hai vị bên mặt mang khiêng và kiếm xua đẩy những
người tội lỗi tày đình. Những người nầy sắp đặt có
phần hỗn độn hơn bên kia. Phần dưới là Địa ngục lửa
nóng đốt cháy, quỷ sứ mặt mày méo mó, dữ tợn cười
nhăn. Ở giữa, quỷ Xa Tăng ngồi đặt chân trên một người
lười biếng dưới có những ngọn lửa đốt nóng. Có lúc
lại bị một con thỏ đốt cháy. Lấn vào trong, một con quỷ
vừa đẩy những người bị tội vào miệng há lớn con quái
vật Léviathan trong kinh thánh, vừa nhìn lại đàng sau một
người đang chạy thoát ra khỏi Địa ngục.
|
Bên cạnh là cán cân
linh hồn kế toán những điều thiện ác trong đời, chỉ còn
lại hai dĩa cân, một con quỷ tinh ranh đang cố nhấn mạnh
để làm nghiêng mà không thành. Những tội lỗi có thể sắp
thành hai loại tập thể và cá nhân. Về cá nhân, cố tìm
cũng bắt gặp được những tội lỗi cốt yếu : trên đã
thấy hai chân Xa Tăng đạp lên người làm biếng ; một người
đàn bà trần truồng ngoại tình cột cổ với một nguời
đàn ông ; một người hà tiện bị treo cổ, túi tiền trước
ngực, chân bị rắn quấn ; một hiệp sĩ áo giáp lưới sắt
kiêu ngạo bị đánh rơi xuống ngựa ; một người vu khống
bị quỷ cắt lưỡi ; một người nóng tánh, hung dữ bị quỷ
ăn não và tự đâm dao vào họng ; một người kiêu căng bị
quỷ dành cướp cái đàn hạc và cắt lưỡi.
|
Trong các tội lỗi tập
thể, nguyên do của cải, quyền thế và kiến thức, nhiều
cảnh tượng chỉ rõ cách cư xử của các vị có uy lực.
Ở giữa, vua nước Đức Henri V trần truồng dùng ngón tay
chỉ vua Charlemagne bất bình thấy ông nầy được vào Thiên
đường ; đức Giám mục Maurice Bourdin thành Uzerche, người
đã tôn Henri V lên làm vua mặc dầu có sự chống đối của
vị Giáo hoàng Grégoire VIII, được xem là người chống Giáo
hoàng, đây trình bày bị đâm giáo từ miệng qua gáy (đoạn
giáo từ tay quỷ đến miệng bị gãy) và bị lật mủ lễ
; vua nước Đức Henri IV bị khai trừ ra khỏi Giáo hội, đây
trình bày không có mũ miện, con quỷ đứng chào, chân co ngược,
một cử chỉ nhại châm biến ; một người bán vải nạn
nhân của con quỷ đang mở cuộn vải ra ăn ; người cho vay
nặng lãi bị treo chân, đầu xuống đất, mà vẫn với tay
mò tiền bên cạnh .
|
Ở trên, tội lỗi về
tiền bạc và kiến thức còn nặng hơn. Người thợ đúc tiền,
chúa tể tiền bạc, tay nắm dấu bảo đảm, chân đạp bình
nung vàng, bị ông chủ tham lam gian ác đổ vàng nóng chảy
vào miệng ; những người theo dị thuyết, tay cầm sách phổ
biến những tư tưởng sa đọa vào thế kỷ 12 : đức Giám
mục Béranger ở Tour không tôn sùng đấng Christ thực tế trong
bánh thánh thể ; Pierre de Bruys và Henri de Lausanne không chịu
nhận uy quyền của Giáo hội,... ; những nhà buôn mang theo
tà giáo cũng rơi qua lanh tô bẻ gãy như những người theo
dị thuyết nói trên ; một đức Giám mục buôn thần bán thánh
bị rơi vào lưới, gậy quyền gãy và đặt ngược, quỳ trước
Ma vương cũng là một thiên thần truất giáng, phạm một trong
những tội tày trời lớn nhất cho người tu hành....
|
|
Ô trán thật là một
cuốn sách vẻ trình bày thời sự, không những về chính trị,
đạo giáo, phong tục, mà còn về tình trạng xã hội, kinh
tế, thể chế,...Không phải tình cờ mà vua Charlemagne được
nâng lên Thiên đàng, đấy là do phái Capétiens muốn hợp pháp
hóa cuộc nối ngôi của dòng mình ; đằng kia, những vua Henri
IV, Henri V nước Đức bị rút phép thông công và hạ xuống
âm phủ cũng là vì triều đại Hohenstauffen muốn lên tiếm
ngôi. Râu ria hai ông Abraham và Melchisédech cắt theo kiểu Assyrie,
khác hẳn với các vị trong Thánh kinh như Moïse hay Aaron. Nếu
đấng Christ ăn mặc theo kiểu cổ, tu sĩ Dadon bận đồ thế
kỷ 8 và vua Charlemagne mang y phục thời carolingien....
|
Vài chi tiết cho thấy
ô trán Conques không có một kiến trúc thường được đánh
giá thô sơ, đơn giản, trình bày nông cạn, kém sâu sắc,
mà là một kiệt tác nâng cao giá trị trung cổ nói chung, roman
nói riêng. Nhìn kỹ, khách xem nhận thấy đủ mánh lới của
nghệ nhân phát họa bố cục : cân đối, nhịp điệu, đối
diện, giống nhau, lặp lại, tỷ lệ, linh tinh,...Thêm vào đó,
tài hoa của các nhà điêu khắc, lắm khi với vài điểm hài
hước cần thiết trong một khung cảnh quá nghiêm trang, đã
hiến cho kẻ hậu thế những thích thú của người biết hưởng
ứng cái đẹp trong một phong cảnh hữu tình, một nơi lịch
sử trên con đường Saint-Jacques de Compostelle, một nhà thờ
mang tên thánh Foy.
|
Kỷ niệm một hôm xúc
động nghe ngâm thơ và hát những bài vùng Auvergne ở lâu đài
Auvers.
Tôi rời quê hương thân yêu
|
|