Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ] [
Tác
giả ]
ĐƯỜNG
VỀ KINH THÀNH HUẾ
Bài
và ảnh Võ Quang Yến
|
Đường
vô xứ Huế quanh quanh,
Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu
|
Orsay,
một thị trấn ở miền nam Paris, phía bắc thung lũng Chevreuse,
rất có duyên với Việt Nam vào mùa thu. Năm 1994, vào thời
Đại học Orsay kết nghĩa với hai Đại học Tp Hồ Chí Minh
và Cần Thơ, thị xã tổ chức cả một tuần Việt Nam với
sự tham dự của nhiều nhà kinh tế học, nghệ sĩ, họa sĩ,
võ sĩ, nhạc sĩ đứng đầu có anh giáo sư Trần Văn Khê.
Năm 2002, chị Hỷ Khương, nhân chuyến đi Đức để giới
thiệu vở Đông Lộ Địch của thân phụ cụ Ưng Bình,
trên đường về có ghé lại Phật đường Khuông Việt ở
Orsay để gặp gỡ bà con bạn bè trong một buổi văn nghệ
hào hứng. Huế nay lại có mặt ở Orsay hôm chiều chủ nhật
15 tháng 11 năm 2009, ở nhà hát Jacques Tati, trong một chương
trình rất hấp dẫn
Đường về Kinh thành Huế (La Route
vers la Cité Impériale de Hué). Đứng ra tổ chức là nhóm Nhóm
Văn hóaCổ truyền Nhạc học và Giáo dục (OCTAVE : Orsay
Culture Musique Tradition Association Vietnam Education) dưới sự hướng
dẫn của cô Đỗ Duy Nguyệt Ánh, nghệ sĩ đàn tranh. Cô Nguyệt
Ánh làm thư ký ở văn phòng khoa Bộ gien Tế bào Phát triển
Tiến hóa GCDE ở viện Đại học Orsay tức Paris-Nam 11, có
anh chồng làm giáo sư ở Đại học. Anh chị định cư đã
hơn 40 năm ở Pháp, có ba con gái, đều biết nói tiếng Việt
và chơi được nhạc cụ dân tộc. Đấy là một cách để
các con không quên cội nguồn và thừa kế những nét tinh hoa
của văn hóa dân tộc. Sống ở đất khách mà tập được
cho các con như vậy là một nổ lực phi thường của cha mẹ.
Anh chị nghĩ đúng là phải có một tổ chức tại hải ngoại
để dễ thực hiện cuộc duy trì văn hóa cho thế hệ sau.
|
Nguyệt Ánh
|
Octave ra đời cách
đây hai năm với hai tôn chỉ : khuyến khích nền văn hóa Việt
Nam ở Orsay với một chương trình ngày càng mở rộng, đàn
tranh, tiếng Việt, gia chánh ẩm thực,... ; xích lại gần nhau
hai nền văn hóa Pháp và Việt qua những cuộc biểu diễn,
những hoạt động văn nghệ. Đến nay, nhóm đã thực hiện
nhiều cuộc biểu diễn ở Orsay (Ngày văn hóa, Nhà người
già, Hòa nhạc jazz), Taverny (Nhà trong xóm, Ngày phụ nữ), Châtou
(Nhạc viện), Paris (Trường Trung học La Fontaine, Trà đạo
Hàn Quốc), Antony (40 năm Phượng ca), Villebon (Giờ kể chuyện
xưa). Có thể xem nhóm là một nhánh của Đoàn Phượng ca Dân
ca Quốc nhạc mà người thành lập là chị Phương Oanh, thầy
dạy đờn tranh Nguyệt Ánh từ mười năm nay. Học sinh đông
đúc đến từ bốn phương trời : ngoài người Việt còn có
người Pháp, Bồ đào Nha Tây Ban Nha, Nhật bản,...chứng minh
sự thành công của một hội đoàn đế cao cởi mở và tìm
hiểu lẫn nhau. Ngoài ra, Octave còn dấn thân vào những hoạt
động nhân đạo và xã hội qua cuộc liên lạc trực tiếp
với Việt Nam : dự định học bổng cho học sinh tiểu học,
cho sinh viện đại học và Khoa nhạc cổ truyền Việt Nam của
Nhạc viện Nhạc học Tp Hồ Chí Minh. Cuối năm 2009, cô Nguyệt
Ánh đã có về Tp Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 5 năm thành
lập Câu lạc bộ Tài tử Cải lương.
|
|
T.Thu - Quế
Lan
|
Gaëlle - T.Thu
|
Chương trình buổi
trình diễn Đường về Kinh thành Huế gồm có ba phần
: hai phần đầu và cuối dành cho ca nhạc, phần giữa là chiếu
ảnh. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ, nhiều màn phong phú
với toàn nhạc Huế đã lôi kéo khán giả về với đất Thần
kinh : Lý mười thương, Ai ra xứ Huế, Thương về miền
Trung, Tiếng sông Hương, Đăng đàn cung, Lý Nam sang, Lý Giang
nam. Các cô xướng ngôn viên (T.Thủy, Quế Lan, Gaëlle, Hoàng)
măc áo vàng, trong ban hợp tấu, ngoài anh Nguyễn Toàn một
mình áo xanh chơi đàn bầu và ba người bạn ngoại quốc mặc
Âu phục thổi sáo hay đàn dương cầm, hầu hết các cô các
bà sử dụng đàn tranh (theo tờ chương trình) : Solène, Giáng
Minh, Như Mai, Thu Nga, Quế Lan, Anh Đào, Hisako, Ngọc Oanh, Hiếu
Thanh, Ti Ly, Nguyệt Ánh, đều mặc áo quần đủ màu trắng,
vàng, đỏ, tím, đầu mang khăn vàng hoàng cung. Đây là cái
khăn quen thuộc tôi được ngắm sáu, bảy chục năm trước
trong Đại nội thành Huế, đi đôi với những áo rộng thêu
rồng, vẽ phượng, bây giờ khắp Trung, Nam, Bắc, ở trong
nước cũng như ở nước ngoài, đoàn ca nhạc nào cũng sử
dụng, ghép với chiếc áo dài thướt tha không cùng màu thấy
không đúng điệu (*). Tôi còn nhớ lúc trước đức Nam Phương
chỉ chít có một cái khăn mỏng manh mà biết bao lịch sự.
Buổi hòa nhạc mở đầu với hai bản Hành quân và Đăng
đàn cung, tiếng đàn tranh rầm rập cùng nhau cho thoát
ra một sức mạnh của vương triều. Trong trí tôi hiện ra
hình ảnh đức vua mặc triều phục thong thả, bệ vệ bước
lên ngai vàng, trước mặt bá quan văn vỏ nghiêm chỉnh cúi
đầu sắp hàng trên sân rồng thiết đại triều nghi trước
điện Thái hòa.
Sông càng
rộng càng cao
Thời núi càng
cao
Nhìn non nước
Nhẹ bước anh
hào...
Tiếp theo là hai màn
đàn tranh song và độc tấu. Hai cháu Solène và Giáng Minh trình
diễn bài Em bé quê của Phạm Duy. Tuy còn trẻ, hai cháu
đã tỏ ra rất khéo léo trong cách chơi. Cũng dễ hiểu khi
biết Giáng Minh có thầy dạy ngay trong nhà. Ai đã sống thời
trẻ bên nhà mà không biết bài hát nầy, nhất là hai câu
đầu trong sách Tập đọc thời tiểu học.
Ai bảo
chăn trâu là khổ
Chăn trâu sướng
lắm chứ
Ngồi mình trâu
phát ngọn cờ lau
Và miệng hát
nghêu ngao...
Đến lượt Nguyệt
Ánh trổ tài với hai bản
Lý Nam sang và Lý Giang nam.
Cô là một trong những tay đàn tranh đang được nói đến
ở Paris. Tiếng đàn thánh thót diễn tả bản sắc riêng của
điệu lý Thừa Thiên (khác với lý Quảng Trị và không có
ở Quảng Bình), một sản phẩm của nền ca nhạc truyền thống,
chịu ảnh hưởng của nhạc thính phòng, rất gần với ca
Huế về cả tiết tấu lẫn âm điệu. Âm nhạc của lý rất
phong phú, tinh tế, trầm lắng nhưng cũng ríu rắt, có khả
năng thể hiện tâm tình trìu mến, giận hờn, vui mừng cũng
như đau khổ. Những câu
Ai đem
con sáo sang sông
Để cho con sáo
sổ lồng bay xa
là lời của điệu
lý
Giang nam nhưng cũng thường được gọi là
lý Con sáo
tùy những câu đệm "hư hư hư a sang sông sang sông" hay "ơi
người ơi". Điệu lý Nam sang (ở Huế nói xang) cùng
với điệu lý Giang nam là hai trong số 30 điệu lý đã
được thống kê ở Thừa Thiên - Quảng Trị (Dân ca Bình
Trị Thiên - Tôn Thất Bình ; Ca huế và Ca kịch Huế
- Văn Lang).
|
|
Sébastien
Bidon, Bertrand Bidon, Nguyễn Toàn
|
Solène, Giáng
Minh
|
Vẫn
ở trong địa hạt các điệu lý, cô Thu Thủy trình bày bài
lý
Mười thương. Như thiếu nữ Huế thời xưa, áo dài sát
đất, một màu vàng lạt, tóc xỏa ngang vai, tay mang nón lá,
Thu Thủy duyên dáng liệt kê những vẻ đẹp của cô gái Huế
đã làm mê mệt mấy chàng trai, nhất là các cậu "học trò
trong Quảng ra thi, thấy o gái Huế chân đi không đành". Đệm
cho cô hát có Nguyệt Ánh đàn tranh, Sébastien Bidon và Bertrand
Blondet thổi sáo.
Một thương
tóc bỏ ngang vai,
Hai thương ăn
nói mặn mà có duyên,
Ba thương má
lúm đồng tiền,
Bốn thương
răng lánh hạt huyền kém thua...
Mười thương
chưa đủ nên một bài Mười thương thứ nhì Ký tên
Phạm Đình Chương được sáng tác để kéo dài bài thứ nhất.
Sau đó còn có nhiều bài Mười thương khác chẳng hạn
để đề cao một nhân vật,...Sau cùng cách đây vài tháng
một loại bài khác nữa gọi là Mười thương thời "hiện
đại " (vô danh) ra đời, không còn chút màu sắc
Huế nào.
|
|
Hoàng
|
Thu Thủy
|
Màn tiếp sau trình
bày một ngày chợ trình bày nhiều chi tiết mà một người
khách du lịch có thể mang về sau một vòng quanh Việt Nam :
quang gánh, rau quả, ông đồ,...và tấp nập khách hàng, con
trẻ, trai gái, bà già,...
Trước giờ giải
lao có chiếu hình Huế. Tôi hân hạnh đuợc mời viết bài
thuyết minh. Một dịp để giới thiệu thành phố thân yêu
của mình, tôi nhận lời ngay và suốt mùa hè cặm cụi trau
dồi một bài gợi cảm nhan đề
Dọc dòng sông Hương
(Au fil de la Rivière des Parfums), minh họa với những hình ảnh
tôi đã chụp, trong tinh thần trình bày một kinh thành mộng
mơ, một "kiệt tác của nền thơ đô thị" (M'Bow, UNESCO) như
tôi thường đã có dịp làm trước đây. Nhưng ban tổ chức,
với thiện ý muốn cho khán giả biết rõ ràng thành phố,
đã thêm vào hình ảnh, chú thích, làm mất mát tinh thần gợi
cảm ban đầu của tác giả. Âu cũng là một cách giới thiệu
đất nước Hương Bình quê tôi. Một số hình ảnh Huế của
tôi cũng được chọn lọc để triển lãm.
Trở lại sân khấu,
cô Huỳnh Mai trình diễn một điệu múa trên bản nhạc Ai
ra xứ Huế của Duy Khánh. Cô mặc áo dài xanh, một dãy
hoa thêu dọc trên tà áo, tay mang nón lá, trên vai quấn một
khăn quàng vàng dài bay lượn với cô trong các động tác khi
đứng, khi quỳ, tay đưa lên trời hay dang rộng lên hai bên.
Với một nụ cười luôn nở trên môi, cô vui vẻ hết lòng
mời bạn về lại chốn sông Hương núi Ngự.
Ai ra xứ
Huế thì ra
Ai về là về
sông Hương
Nước sông Hương
còn vướn chưa cạn
Chim núi Ngự
tìm bạn bay về...
Được một cô gái
có sức quyến dũ như vậy làm sao mà không về được. Nhất
là trong màn sau, song tấu tranh Nguyệt Ánh và sáo Sébastien
Bidon (hay nói cho đúng tam tấu vì còn có bầu Nguyễn Toàn)
cho thưởng thức một cảnh tượng khó quên của sông Hương
lúc hoàng hôn, một miền có nắng hạ giữa mùa thu, một vùng
mây khắp trời giữa mùa xuân.
Hoàng
hôn rơi ngơ ngẩn hàng thùy dương
Lạnh lùng trong
bóng chiều dòng sông Hương
Trường Tiền
qua mấy nhip mờ trong sương
Ngỡ ngàng khách
thấy hồn buồn mênh mang...
|
|
Nguyệt Ánh
|
Huỳnh Mai
|
Hai bài đơn ca cuối
cùng là do Ti Ly trình diễn qua tiếng đàn đệm Nguyệt Ánh
tranh và Nguyễn Toàn bầu : Thương về miền Trung của
Minh Kỳ và
Thần kinh thương nhớ của Thế Minh. Ti Ly
vui tươi sặc sỡ trong chiếc áo tím rất Huế, làm tôi tưởng
nhớ đến một thời kỳ trai trẻ ngắm các cô nữ sinh Đồng
Khánh vui vẻ nắm tay nhau qua cầu Trường Tiền hay nhẹ nhàng
níu nhau nhảy xuống đò Thừa Phủ tròng trành, khúc khích
cười sau mấy chiếc nón bài thơ. Cô em trách người ít về
thăm
Đã lâu
rồi không về miền Trung thăm người em
Nắng mưa đêm
ngày cách trở giờ xa xôi đôi đường
Người ơi có
về miền quê hương thùy dương
Nước chảy
còn thương bao tình thương cho nhắn đôi lời...
Và ngược lại ngưòi
cũng trách em không hay về lại
Sao em
không về lại thăm miền Trung
Thăm đồi đỉnh
Ngự và nước Hương Giang
Ngày nào đôi
đứa đôi đuờng
Lòng anh thương
nhớ vô vàng
Mong anh mấy
mùa thu sang...
|
|
Ti Ly
|
Phương Oanh
|
Hai màn sau cùng
dành cho Phương Oanh từ đoàn Phượng ca. Phương Oanh bắt đầu
tam tấu một bản đàn tranh với dương cầm Niels Lan Do Ky và
sáo Bertrand Blondet. Chị cũng mặc chiếc áo một màu tím giản
dị không thêu thùa, màu tím đơn sơ (Màu áo tím đơn sơ,
Bay dài mây núi Ngự - Đinh Phong), màu tím thời gian
(Màu thời gian không xanh, Màu thời gian tím ngát - Đoàn
Phú Tứ) , màu tím Chiêm Thành một thuở. Cùng chơi với
nhau những nhạc cụ Âu Á, khi biết chọn bài và biết sử
dụng thì chắc chắn cho phát sinh những bản hòa tấu tuyệt
diệu, êm tai. Đây là mong muốn của Phương Oanh luôn ôm ấp
giữ gìn nguồn nhạc dân tộc trong một môi trường Âu tây
luôn khuyến khích đổi mới. Sau đó, cùng với toàn thể các
ca sĩ, nhạc sĩ, chị cho thính giả thưởng thức bài ca Tiếng
sông Hương của Phạm Đình Chương mà chị yêu cầu cùng
hát.
Miền
Trung vọng tiếng
Em xinh em bé
tên là Hương giang
Đêm đêm khua
ánh trăng vàng mà than
Hò ơi, phiên
Đông Ba buồn qua cửa chợ
Bến Vân Lâu
thuyền vó đơm sâu
Hỡi hò, hỡi
hò...
Khán giả không lầm,
vừa vổ tay đánh nhịp vừa hát theo những câu hát gần như
quen thuộc dù trong phòng không chỉ có người Việt, còn người
Huế thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Kết thúc một
chiều Huế với bài hát
Tiếng sông Hương thì không
có gì đúng điệu bằng. Dù không có Nam ai, Nam bằng ai
oán, vài điệu hò Huế quyến rũ thân thương, khán giả
đã sống mấy giờ hân hoan trong nền ca nhạc Huế. Cám ơn
Octave, tuy chỉ là một nhóm văn hóa nhỏ, phương tiện ít,
đã có cố gắng tổ chức một chiều Đường về Kinh thành
Huế thành công ở thị trấn Orsay xa xăm nầy.
Xô
thành xuân Canh Dần 2010
Tạp chí Sông
Hương số đặc biệt 2010
(có sửa chữa
và bổ túc hình ảnh)
(*) Trong cuộc triển
lãm báo Xuân ở Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp vào dịp
Tết Canh Dần vừa qua, tôi vui mừng nhận thấy trên trang bìa
mấy chục tờ báo đại diện cho hầu hết các tỉnh trong
nước, phần lớn các cô đều mặc áo dài không màu sắc
sực sỡ thêu vẽ rườm rà, không khăn mũ hoàng cung vành rộng
chói lọi. Khăn mũ nầy có thể xem như đã được thả về
quá khứ, chỉ sử dụng ngày nay ở các lễ hội lập lại
tích xưa hoặc trong tinh thần folklore mua vui khách du lịch,
qua ống kính mừng tưởng đã ghi chụp được một di tích
quá khứ truyền thống xác thực.