Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [ Trang chủ ]
Chuyện
phiếm hay chuyện thiền
|
Trời đất sinh ra rượu với thơ, Bình
rượu, túi thơ là những vật liệu luôn luôn mang bên mình
của nhà thi sĩ. Rượu và thơ không thể tách rời nhau, vì
rượu mang lại nguồn cảm hứng cho hồn thơ lai láng, mang
lại khí hào sảng của đấng trượng phu, và làm toại nguyện
ước mơ của người xưa, là: ngâm nga câu thơ dưới ánh trăng,
cùng người tri kỷ chuốc rượu...
Nhưng
rượu không phải chỉ đem lại nguồn cảm hứng, khí hào
sảng, tình tri kỷ. Rượu còn mang lại sự say sưa, quên lảng.
Quên sự đời mang đầy ảo tưởng, thất vọng, bất bình.
Những nhà "thơ rượu" đa số quả là những nhà thơ bất
đắc chí.
Dù
là Horace nâng ly ca tụng mùa xuân, khi tuyết tan chảy trên
đỉnh đồi, giữa tiếng cừu dê kêu trên đồng nội, dù
là Lý Bạch say khướt dưới ánh trăng đến khi tỉnh giấc,
lại chuốc rượu hát ca một mình, dù là Tản Đà cất chén
quỳnh mải mê đi tìm người tri kỷ:
tất
cả đều tìm trong cơn say lúy túy, một giấc mộng bé, trong
giấc mộng to...
Vì
cuộc đời chẳng là một giấc mộng lớn ư ?
|
Một
giấc mộng dài đả làm đau lòng nhiều người, vì xấu nhiều
đẹp ít, vì thường là một cơn ác mộng, một giấc mộng
lắm phiền hà. Khác xa với cái mơ mộng của tuổi thơ, đó
là cơn thực mộng phũ phàng của người từng trải:
Phải,
thất vọng vì cuộc đời, vì con người, ai nấy đều đả
trải qua, hơn trong một giây phút. Ai nấy đều đả thoáng
nhìn thế sự như mây nổi, bèo trôi, nhìn công danh phú quí
như đóa hoa phù dung, như con phù du, sớm tối đả tàn:
Chỉ
vì định luật vô thường của vũ trụ, với sự biến đổi
không ngừng của sự vật, khiến cho " mái
tóc sớm như tơ xanh, mà chiều đả thành tuyết " 6,
khiến cho "cây cì tươi tốt lúc xuân sang,
thu tới đả khô cằn" (7).
Qua
Héraclite, qua các nhà hiền triết "n độ Dravidiens với quan
niệm samsâra (luân hồi) và mâyâ (ảo giới), tính chất vô
thường đả được xác định, cho đến khi được Phật Thích
Ca bổ túc bằng thuyết vô ngả, là một giai đoạn quan trọng
vô cùng.
Thật
vậy, nếu chỉ hiểu vạn vật vô thường, thì con người
sẽ suốt đời than thân trách phận, dù lắm khi vì một mối
"sầu vạn cổ" vượt khìi thân phận cá nhân mình:
Ai người trước đả qua? Nhà
"thơ rượu" cũng vậy, vì thấy cuộc đời đầy những bụi
bậm tranh giành, chỉ vì công danh tiền bạc hảo huyền, trong
khi thế giới đảo điên, quốc gia tao loạn, nên tìm quên
trong thơ trong rượu, dưới ánh trăng tưởng chừng như trong
sáng muôn đời. Cứ như thế: tỉnh rồi lại say, say rồi
lại tỉnh. Khi say, thấy "lòng vui cùng cực,
sống chết ngang nhau" (9), nhưng lúc tỉnh lại cảm thấy
"nỗi sầu muôn vạn mối" (10):
Rút gươm chém nước, nước vẫn trôi Than
ôi! Rượu chẳng tiêu được sầu, ngược lại rượu để
lại sau cơn cuồng nhiệt hứng tình, một nỗi buồn ray rứt,
khó quên. Trước vò rượu ngổn ngang, túi thơ nhầu nát...
Chỉ
vì thi sĩ không quên được cái bản ngả to lớn của mình,
không biết thản nhiên trước sự thịnh suy của sự vật
chỉ "như hạt sương trên đầu ngọn cỏ"
(12),
và không hiểu được rằng: nếu
thực
là mộng, thì mộng cũng chính là thực.
Và
nếu cho rằng sống Thiền là sống thực,
sống
hiện tại, thì còn gì ngược lại tinh thần thiền hơn
là trốn tránh thực tại? là để tâm hồn chìm đắm trong
một thế giới mộng ảo, say sưa? Thật chẳng khác chi thay
vì tự thức tỉnh mình, lại đi sâu vào một giấc mộng con
trong giấc mộng lớn! Các nhà "thơ rượu" làm như vậy, chẳng
là làm cho cuộc đời đả ngắn ngủi rồi, lại còn ngắn
ngủi thêm ư?
Mà
dẫu đời người ngắn ngủi đi chăng nữa, đâu có thể nào
đo ví bằng thời gian. Cứ xem như con rùa sống hơn trăm năm,
cây cổ thụ sống cả ngàn năm, đâu thể nào so sánh với
con người sống mấy chục năm? Dĩ nhiên (hay không,... tùy
bạn), đả là con người, thì phải sống một cách mảnh liệt,
trọn vẹn, không để phí một giây một phút, lại càng không
thể tìm quên sự sống trong rượu chè ma túy. Nếu cần, xin
lấy con ve sầu làm gương: người ta cho nó tên là "sầu" nhưng
nó không sầu chút nào. Trái lại, sau bảy năm đầy đọa
dưới đất, nó chỉ sống bảy ngày trên cây, nên suốt ngày
chú ta kêu inh ìi, như muốn gửi vào từng tùm cây kẽ lá
bức thông điệp của mặt trời và sự sống.
|
Người
tu Thiền, coi mình cũng như mọi sinh vật, nên ý thức được
sự quí báu của mỗi giây phút sống trên thế gian này, nhưng
tuyệt nhiên không chấp chặt vào sự sống đó, cũng như không
chấp chặt vào một vật gì. Điềm nhiên, tự nhiên, và hồn
nhiên sống, trong một niềm vui nhẹ nhàng, giải thoát. Không
lo, không sợ, không sầu. Cuộc đời tuy như "một
vì sao mờ dần buổi bình minh, một ngọn đèn dầu leo lét,
một tia chớp trong đám mây hè, một bóng ma, một giấc mộng..."(13),
nhưng tiếng hát chim hoàng anh hôm nay thanh hơn bao giờ hết,
hương thơm hoa mộc hoa trà hôm nay dịu hơn bao giờ hết!
Và
chẳng cần chuốc rượu ngâm thơ, vị Thiền sư cũng thấy
lòng vui man mác khi nhìn mặt trăng trong sáng chiếu qua cửa
sổ túp lều tranh. Còn chúng ta? Ngày hôm nay, Xuân đả
trở về với bao bải cì non, bao đóa hoa hàm tiếu. Hảy thưởng
thức cái đẹp hiện tại nhiệm mầu để rồi khi hồng thưa,
xanh rậm, không còn "tiếc làm gì những
đóa hoa rơi"
(14). Và cũng xin
trong một nụ cười cởi mở, cùng một vài nhà "thơ rượu"
nhấm nháp, ngâm nga:
Còn
thơ còn rượu còn xuân mải
Còn
mải xuân còn rượu với thơ. (15)
|
(1)
Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.
(2)
Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.
(3)
Lý Bạch: Xuân nhật túy khởi ngôn chí.
(4)
Cao bá Quát: Ngán đời.
(5)
Ôn như Hầu: Cung oán ngâm khúc.
(6)
Lý Bạch: Tương tiến tửu.
(7)
Vạn Hạnh thiền sư.
(8)
Trần tử Ngang: Đăng U châu đài ca.
(9)
Lý Bạch: Nguyệt hạ độc chước III.
(10)
Lý Bạch: Nguyệt hạ độc chước IV.
(11)
Lý Bạch: Tuyên châu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân.
(12)
Vạn Hạnh thiền sư.
(13)
Kim Cương Bát nhả Ba la mật đa.
(14)
Vương Duy: Tống xuân từ
(15)
Tản Đà: Ngày Xuân thơ rượu.
|
[ Trở Về ]