Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
[ Tác giả ]
|
|
Chiều
nào hắn cũng thấy chân trời phía tây mây đùn lên trông
giống như những tảng đất bùn. Có tiếng ì ầm, không phân
biệt được sấm hay đại bác. Một lúc sau mây loãng ra, có
thể thành cơn mưa nhoà ở rất xa. Cơn mưa không chịu di chuyển
xuống miền xuôi, mấy ngày qua nó chỉ đứng trên ngàn làm
cho nước con sông chảy về hoá đục. Đã tới lúc phải cày
ải, nhưng nơi đây ba tháng qua không có một giọt nước mưa.
Chiều nay chân trời giãn nở rộng ra, cong đi, càng thêm mênh
mông. Buổi chiều gió thổi rất nhẹ, mới đủ làm cho cỏ
lung lay, chưa mát mặt. Nền trời đầy một màu vàng nhạt
như bụi phấn. Cánh đồng trải rộng ra, trống trải bơ vơ.
Nắng lâu quá đến cỏ cũng chẳng mọc nổi, chỉ còn vài
nhánh lúa đẻ muộn cố giữ màu xanh, phe phảy những bông
bạc màu như muốn chứng tỏ tất cả chưa phải đã tàn tạ.
Những con dế và những hạt lúa rơi rụng ngoài đồng sau
mùa gặt chui xuống mạng lỗ nẻ chân chim cố chờ mưa đầu
tiên. Loài hoa mắc cở đầy gai lúc trước ở trên đồi mọc
tràn xuống ruộng tìm nước. Hắn mơ có cơn mưa, cơn mưa
thực nặng hạt, thấm sâu vào lòng đất để cho lưỡi cày
đầu tiên xới lên có những con sáo hấp tấp đi theo tìm
mồi trong những luống đất vừa mới trở mình, nóng hổi.
Nhưng buổi chiêù hôm nay cơn mưa hắn mong đợi vẫn không đến, chung quanh trống vắng buồn bã quá. Người như hắn không thể chịu nổi sự cô đơn. Ngồi nơi cái chòi canh ở bìa làng này hắn sợ nhất là sự yên lặng. Không có tiếng động giống như đang có một âm mưu gì chập chờn quanh đây. Có tiếng súng, dù là tiếng đại bác của địch ở xa vẫn còn hơn. Không có tiếng động giống như bước chân của thần chết rình rập. Lâu lâu hắn phải bóp cò để cho tiếng nổ vu vơ, chứng tỏ vùng này còn có con người, có sự sống. Tiếng súng làm cho hắn can đảm. Tiếng nổ xua bầy chim sẻ hàng trăm con bay lên. Cả bầy bay dạt sang đám đất bên cạnh. Đây là giống sẻ đồng, chúng sà xuống ruộng từng bầy để nhặt lúa rơi. Sẻ đồng khác sẻ thành phố. Ở phố chim sẻ cũng sống thành bầy nhưng ít hơn, mỗi bầy chừng mươi con, chúng rất dạn, tới sát một bên mới chịu bay. Hắn không bao giờ bắn chim. Hắn bắn vào những chiếc lon rỗng mà lúc trước tụi lính bảo an tới dựng đồn, làm rào kẽm gai treo lên để báo động, thực là một thứ bẫy thô sơ. Hắn là tay thiện xạ. Hắn bắn tài tình đến nỗi mỗi phát đạn hất tung một cái lon lên cao, chưa kịp rơi xuống đã bị viên đạn khác đẩy lên cao hơn nữa. Nếu có đạn nhiều hắn có thể giữ mãi chiếc lon trên không. Tài bắn của hắn có thể ghim con chuột đồng nhỏ tí xuống ruộng bùn ở cách xa năm bảy chục thước. Nhưng trò chơi buổi chiều của hắn hôm nay phải chấm dứt. Không cái lon nào cho hắn bắn, thế mà hắn còn tới một giờ rưỡi nữa mới hết phiên gác. Từ bé hắn đã có tài bắn ná cao su. Hắn lên rừng tìm cho được thân cây ổi để làm gọng ná. Gỗ của loài ổi dại tốt lắm, nó chỉ có lớp vỏ mỏng bóc ra rất dễ, chất gỗ rắn dẻo dễ uốn nắn. Ngày trước tìm ra được sợi cao su rất khó. Hắn trộm con gà nòi của ông hắn đổi cho anh chàng cắt dép lốp ngồi ở đầu cầu lấy cao su làm ná. Cột dây vào ná là công việc rất khó. Hai sợi dây phải căng đều thì viên sỏi mới bay trúng đích. Mỗi lần hắn xách ná đi là có chim đem về. Người ta nói hắn có số sát điểu. Vùng này ngày trước nhiều chim lắm, sau vì chiến tranh, bom đạn, chim sợ bay đi hết. Cái khó nhất trong việc bắn chim là phát hiện ra chúng đúng nơi đậu trên cành. Có những chuyển động luôn nên dễ thấy. Đối với giống chim nhảy nhót này, gặp thì bắn ngay, chậm chúng bay mất. Thế nhưng vào những buổi trưa đầy gió, đứng dưới nhìn lên, bóng nắng lấp loá rất khó tìm kiếm. Cũng có loại như chim cu đất, cu cườm, chỉ đứng im một chỗ trên những cành khô. Chúng nó có tiếng gáy vang xa, làm tổ rất sơ sài, nên tới mùa gió, trứng hoặc chim con thường bị rơi xuống đất. Bắn được anh chim gáy béo tròn mổ bụng dồn muối ớt nướng lên thơm phức là cái thứ chiến lợi phẩm mấy đứa bé đều mê. Qua tuổi thiếu niên hắn trốn lính mấy năm thì bị bắt. Cha mẹ hắn bán ruộng để lo cho hắn cái chân lính làng, được ở gần nhà. Từ ngày hắn vào lính, mẹ hắn chuyên ăn chay trường để cho thằng con trai tránh hòn tên mũi đạn. Mẹ hắn khuyên hắn chớ có sát sinh. Bà thường nói: "Chớ ai rình rập bắn mày mà mày bắn nó?". Từ đó hắn không bắn chim chuột nữa. Nhưng đồ chơi của hắn lúc trước là cái ná cao su bắn bằng những viên sỏi, bây giờ là cây súng Cạc-bin M1. Một cây súng cũ, có từ thời Pháp thuộc, loại súng trường nhỏ và nhẹ nhất. Nó là thứ súng tụi lính chính qui thải ra cho đám lính làng. Cây súng của hắn có cái báng súng đã mục. Hắn có thể bỏ ra hàng giờ để điều chỉnh bộ ngắm cho chính xác. Thỉnh thoảng tụi lính tổ chức bắn thi, uống bia, hắn luôn luôn thắng. Sau này chẳng có đứa nào dám thi bắn với hắn. Bọn lính dẫn hắn qua đơn vị khác bắn thi. Mỗi lần hắn đi luôn luôn có một bọn theo chực uống bia. Có khi tụi bạn thách hắn bắn vào những mục tiêu rất lạ, như nhắm bắn con sáo đậu trên lưng trâu ở xa hàng trăm mét. Hắn nâng súng lên, không cần nhắm, bóp cò, cả bọn ồ lên, con sáo trúng đạn lặng lẽ rơi, chú trâu vẫn đủng đỉnh gặm cỏ, không biết trên lưng mình đã xảy ra chuyện gì. Tụi lính tôn hắn làm tay thiện xạ. Có đưá nói hắn sinh nhằm giờ linh. Giờ của nhà thiện xạ Dưỡng Do Cơ. Có đứa nói nhà nước đem hắn về nuôi, mỗi lần có thi bắn quốc tế hắn sẽ đem huy chương vàng trở về. Còn hắn thì thấy trên đời chẳng có việc gì dễ như bắn súng. Hắn muốn "đặt" viên đạn nơi nào cũng được. Hắn học ít lắm, đâu chỉ có lớp ba, lớp tư, mới biết đọc biết viết. Trong tiểu đội lính làng giữ chòi canh này có mấy đứa con nhà giàu, đậu tú tài, trốn lính, không khai bằng cấp, đi binh nhì. Tụi này vào giờ gác mang sách báo ra đọc. Còn hắn chẳng biết làm gì ngoài việc nâng khẩu súng lên nhắm bắn vào cái gì đó. Hắn cũng chẳng biết cấp trên lập ra cái chòi canh này làm chi. Canh là canh gì. Địch tới thì làm được cái chi? Nhưng thôi, mặc kệ, hắn chẳng cần nghĩ ngợi xa xôi, có cây súng trong tay nhắm cái này cái nọ bóp cò nổ đoàng . Cũng có khi súng không đạn, nó bóp cò, miệng hêu thay tiếng nổ, nghe cho vui tai. Có hai lần hắn rất ân hận, đó là lần bắn chết con sáo đậu trên lưng con trâu và lần bắn con chim mía đậu vắt vẻo trên cao. Từ đó về sau cắt cổ con gà hắn cũng không làm. Chiều nay hắn bắn vu vơ vài phát rồi dựng súng, lấy thuốc ra hút. Im lặng quá, buồn quá, cái đồng hồ cũ hắn mang nơi tay sao ngày hôm nay chạy chậm thế. Trời còn sáng quá. Mặc dù mặt trời đã lặn xuống núi, hoàng hôn vàng như mật ong chảy dài xuống triền đồi nhưng vẫn còn mấy đám mây mang đầy ánh sáng bay qua nên trông trời đất rất trưa. Một đàn cò bay theo hình chữ V từ đông sang tây. Theo quán tính hắn cầm súng lên rồi dặt xuống. Hắn nhớ tới cấm sát sinh. Mẹ hắn xem thầy nói tháng này hắn bị cái hạn nặng lắm. Với lại bầy cò bay cao quá, đạn không thể tới, mà có trúng được, cò chết rơi xuống giữa cánh đồng đầy rắn, chuột với đỉa, chẳng có đứa nào dám nhặt. Thịt cò khét lắm, bọn lính cũng chẳng thích gì. Hắn phì phà điếu thuốc, mắt lơ đãng nhìn ra cánh đồng. Phía bên kia có một chỗ đất trũng. Không biết từ đời nào, dù vào năm đại hạn nơi đây vẫn có nước. Chỗ ấy hoá thành nơi trồng sen súng, tắm giặt, còn cái vũng lầy cạnh đó là nơi trâu đầm . Phía bên kia hồ có vạt súng. Lá súng nhỏ hơn lá sen, không vươn cao hơn mặt nước . Lá súng giống như cắt bằng giấy màu tím trải gần kín mặt nước. Hoa súng lúc đầu nhô cao lên khỏi mặt nước, sau nở thành bông hoa nhiều cánh nhọn, màu tím rất tươi đón lấy ánh sáng mặt trời không quá gay gắt. Tới khoảng chín mười giờ trưa, cánh hoa khép lại. Ngày hôm sau hoa nở lần thứ hai, rồi lần thứ ba, tới ngày thứ tư hoa đó mới ngã mình nằm trên mặt nước, sau chìm luôn xuống lòng hồ. Không biết súng có kết hạt như sen không? Trong hồ cũng có sen, nhưng hoa rất ít vì có đoá nào tụi chăn trâu hái hết. Sen trong hồ có những tấm lá khổng lồ, dày và xanh, một màu xanh xám bạc. Sáng nào những chỗ trũng trên mặt lá cũng đầy sương. Thứ nước sương lạ lắm, nó chao đảo, sóng sánh như thuỷ ngân. Có một cô gái đi tới. Cô gái đặt chiếc vò bằng đất lên cỏ, cô nghĩ: Không mưa, trời khô lắm, đêm sương rất ít, qua một sáng nắng, thứ nước đọng trên lá không còn bao nhiêu tại sao cha dặn mình xách vò lấy nước về nấu nước cúng ông bà. Cha cô nói nước đựng trong những chiếc vò đất bao giờ cũng mát. Nước thấm qua những lổ nhỏ li ti nơi thành vò bốc hơi làm giảm nhiệt độ nước trong vò. Chiều nay cô còn rất nhiều việc, giặt giũ, rửa rau. Muốn lấy nước đọng trên lá sen phải xắn quần lội ra xa. Cô rất sợ đỉa, nhưng lại còn sợ cha hơn. Mỗi lá sen chỉ hứng được một ít cái thứ nước quí giá đó. Cô hứng cả tiếng đồng hồ mới được phần tư vò. Trước khi đi cha dặn: Nước cúng ông bà phải đội trên đầu. Lúc trước ở làng Hữu Đức Phan Rang cô gái này có quen mấy người Chăm. Cô thường đi tắm gội với họ và cũng đã học được cách đội vò nước trên đầu. Những cô gái này luôn luôn có dáng đi thẳng đứng rất đẹp. Sắp tới đây cô sẽ đội vò nước sương leo dốc. Hắn trông thấy cô gái áo trắng quần đen từ dưới nhô lên. Hình như cô đã xuống ao tắm giặt. Sự xuất hiện của cô gái làm cho hắn chú ý. Cô gái bước trên con đường dốc. Đường thoai thoải, vừa đất vừa đá. Một tay cô cắp rổ. Trong rổ đựng lá xanh. Tay kia cắp thau đựng áo quần. Hai tay cô bận cả nên cô phải đội cái vò nước trên đầu. Thực là tài. Hắn thắc mắc, con gái xóm này hắn biết cả, nhưng có ai biết đội vò nước đi như cô gái này đâu? Hắn nghĩ: Nhân khúc đường vắng cô gái trổ tài làm xiếc, đội vò không cần tay vịn, leo lên con dốc. Hay là cô gái biết hắn ngồi buồn nơi đây, cô tính làm xiếc cho hắn xem. Hắn tin đây là cô gái nghịch ngợm. Cô nào nghịch ngợm cũng dễ thương cả. Dáng đi của cô gái uyển chuyển nhịp nhàng. Cái vò đất lắc lư nhưng không có vẻ gì là không vững chải cả. Cô bước những bước thong thả. Hình như đối với cô giờ này còn sớm lắm để lo bữa ăn chiều. Không biết vào giây phút đó cô gái nghĩ gì, nhưng trong đầu cái thằng thanh niên mười tám tuổi đã nẩy nở ra một trò tinh nghịch rất thù vị. Hắn sẽ bắn một phát để cái vò bể đổ nước làm ướt áo cô gái. Có thể vì xa quá cô chẳng nghe được tiếng súng. Cô không biết tại sao chiếc vò bể. Cô sẽ tức giận con mụ bán cái vò đã nứt. Hắn cười khoái trá tưởng tượng ra cái cảnh cô gái lúng túng khi chiếc áo phin mỏng ướt dính chặt vào da để lộ bộ ngực nở nang của con gái, và cái quần lãnh cũng dán vào mông. Khi đến đầu làng chắc cô mắc cở lắm. Song rồi hắn lại nghĩ: Hay là thôi đừng bắn nữa! Tội nghiệp, chiều rồi để người ta về nhà lo cơm nước. Nếu cô chưa chồng sẽ bị cha mẹ la về cái tội làm bể vò. Nếu đã có chồng sẽ bị chồng chê trách về cái tội vụng về. Hắn suy nghĩ thế rồi hắn lại nghĩ khác: Cái vò đất bao nhiêu tiền, bể cái này mua cái khác. Vả lại cô ấy có thể nói láo, lúc leo lên dốc vấp hòn đá. Mấy ngày sau người nhà mua cho cô đôi thùng gánh nước tiện lợi hơn. Trò chơi của hắn vô hại mà. Hắn cứ phân vân mãi về một chuyện chẳng liên quan gì đến mình. Tại sao cô gái không đặt rổ rau lên thau áo quần rồi cắp một tay, tay còn lại xách vò nước, hoặc không muốn xách, đội đầu cũng được, nhưng ít nữa cũng vịn nó bằng một tay. Ở nơi hoang vắng này cô biểu diễn trò xiếc cho ai xem? Vừa rồi hắn đã bắn hết mấy chục viên đạn. Hắn tháo băng đạn ra, băng đạn cạc-bin cong như quả phượng khô, trống trơn, chẳng còn viên đạn nào. Cái lò xo trong băng đẩy lên đến tận cùng rồi. Hắn tháo cuy-lát ra xem, ổ đạn trống không. Hắn nghĩ, may cho con bé! Cái số của nó không bị ướt áo quần. Hắn dựng súng lại nơi cũ, móc thuốc ra hút không nghĩ ngợi lôi thôi về trò tinh nghịch nữa... Chỉ còn vài phút sẽ có đứa khác đến thay phiên gác. Hắn sẽ xách súng về tắm rửa, ăn cơm, mở vọng cổ ra nghe. Mắt hắn bỗng thấy trong góc nhà có viên đạn. Viên đạn nằm nơi ấy đã lâu, lấm đầy bụi đất, chất đồng ngã màu xám xanh. Hắn trách tụi lính làng không có kỉ luật, súng ống, đạn dược bỏ lung tung. Thiếu tá quận trưởng đến thì chết cả lũ. Hắn lượm viên đạn lên, lấy vạt áo lau nạp vào ổ đạn. Cho tới giây phút cuối cùng hắn vẫn còn nghĩ: Viên đạn cũ như thế này, chắc gì đã nổ? Lại phải tháo súng ra lau chùi. Hắn tì khẩu súng lên cửa sổ. Lúc đó hắn tưởng tượng ra cái cảnh buồn cười: cái vò vỡ ra, nước tràn áo quần cô gái. Cô ta la oai oái. Hắn biết con gái xóm này dữ lắm. Chúng nó sẽ chửi cái thằng lính làng mất dạy nào đó. Có thể cô gái làm đơn kiện lên chỉ huy trưởng. Người ta sẽ buộc tội hắn, chỉ có hắn mới có tài bắn và tinh nghịch như thế. Nhưng rồi một lần nữa hắn lại nghĩ khác. Để cho trò chơi thêm phần lý thú, hắn sẽ làm bộ đi tới chỗ cô gái, làm một cử chỉ tử tế. Hắn sẽ cởi áo lính ra khoác cho cô. Biết đâu đây chẳng là cơ hội làm quen? Hai người sẽ dìu nhau trở về trên con đường hoàng hôn, băng qua cánh đồng gió mát rượi tan trong ánh chiều nhàn nhạt. Biết đâu sẽ nên duyên? Thôi, cô gái đã lên tới đỉnh dốc rồi. Bóng cô gái cắt lên nền trời rất rõ. Đây là lúc thuận tiện nhất. Hắn bóp cò... Tiếng nổ nghe lạ hẳn, khô khốc, khô đến bỏng rát. Buổi chiều kéo dãn tiếng nổ ra khắp cánh đồng lên tới mây rồi phản hồi xuống đám khói vàng màu hoàng hôn. Tất cả loãng ra, tất cả im lặng, một thứ lặng lẽ nặng nề đến tàn nhẫn. Trời ơi ước chi có tiếng la oai oái của cô gái chửi đứa tinh nghịch. Không có, không có gì cả, kể cả tiếng thở dài não nuột của buổi chiều... |
|