Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Đang
đi tìm một cõi văn chương trong kho chữ thì gặp bác. Bác
đúng là mọt sách, mọt chữ để thành bạn gối đầu lên
chữ nghĩa của tôi và để có chuyện lập thân tối tiểu
thị văn chương dưới đây. Chuyện là bấy lâu nay, tôi năm
nắm nghĩ làm như định mệnh an bài cho mỗi người gắn liền
với mỗi vật để có chung một dòng sinh mệnh. Vậy mà đã
gần nửa đời người tôi đi tìm nó, năm mươi năm thì ngắn,
nhưng nếu nghĩ đến nửa thế kỷ thì lại quá dài. Nó vẫn
có đấy, còn đấy và bám cứng theo tôi không rời.
Bác
mọt sách vừa bò ra khỏi trang giấy lỗ mỗ lơ ngơ hỏi "nó"
là cái giống gì mà giống đuổi mồi bắt bóng vậy? Chả
dấu gì bác, lúc này tôi có một chuyện khác. Trong đom đóm
ngoài bó đuốc là đi tìm...chữ để viết về một vật.
Nó dường như cũng có chung một dòng sinh mệnh với tôi, mà
tôi vừa mạo muội thưa gửi với bác ở trên. Khi không bác
cõng ông Anton Chekhov vào chuyện xóng xả: "Khi viết, bạn phải
tìm cách vượt thoát phần vào chuyện và hết chuyện
vì nó làm mất nhiều thì giờ nhất cho người viết". Dạ,
hiểu rồi bác! Phần "hết chuyện", nói cho ngay tôi đang quá
mù sa mưa!
Còn
phần "vào chuyện" thì có ngay đây...thưa bác!
*** "...Như
hôm nay chả hạn, đang nằm bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc
phiện, ông nghe vanh vách, không sót một tiếng...Khác với
mọi ngày, lúc này ông đang vật vờ về một thời hoàng kim
cùng ngẫm chuyện nhân sinh. Nào là sống ở trên đời chả
được mấy. Không ăn chơi cũng thiệt, chả ăn cũng thiệt
vào thân, không chơi cũng già khú đế. Và ông tặc lưỡi
tách một cái. Mà đã ngập vào nơi chốn ấy, tương giao tri
kỷ không ngòai khi buồn thuốc phiện, lúc vui cô đầu đến...nhức
đầu. Đêm hồi hôm, ông ngủ cho béo mắt. Sáng nay dậy muộn.
Ông nằm khểnh trên phản nghe bà hàng xóm chửi mất gà,
quên tiệt đi mất là từ sáng đên giờ chưa làm ngao nào
cho ra hồn. Tiện tay quơ cái dọc tẩu. Ông phồng má lấy
hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu cho thông hơi thông
điếu. Chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho vừa
đủ nóng. Nhét bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn
có dấu in hình nổi "Bà Đầm Xòe" có cái tít "Công Quản
Nha Phiến Đông Dương" mà ông cậy cục mua ở phố Khâm Thiên,
ngõ Yên Thái tận Hà Nội. Ông
thong thả khẽ nhấn nhấn chất dẻo vừa đủ chặt sau đó
nhẹ nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian
phòng ẩm thấp, gần như ông nghe được cả tiếng xèo xèo
của chất nhựa quánh gặp nóng kêu riu riu. Trong cái giây lát
yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, ông thót bụng
lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang
cửa miệng, thông qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm. Ông
hít vào một chập thật lâm ly quy phượng như lõ cả bộ
điếu ra. Tiếng điếu kêu ròn tan, mùi thơm ngào ngạt tỏa
khắp nhà. Ông lờ đờ nhả khói từng ngụm nhỏ giữa gian
phòng thênh thang, không một bóng người. Trừ con thạch sùng
đang đờ đẫn trên vách tường, bỗng khi không nó buồn tình
tặc lưỡi một tiếng "tách", thì ra nó đang đợi hít hít
chút hơi hám cơm thừa canh cặn của ông. Ông hãm khói từng
ngụm thuốc từ nãy giờ. Giờ mới nhả ra những mảng khói
xanh nhạt nhỏ, từng đợt, từng sợi mỏng tang như hương
tàn khói lạnh...". Đầu
trỏ xuống cuống trở lên, chữ nghĩa tôi là một thứ trái
muộn, nó ương ương vào cuối mùa, bác thấy sao? Bác tặc
lưỡi "tách" một cái như con thạch sùng và rằng: "Văn
hay chả luận đọc dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay" (ca
dao). Ấy! Lạy thánh
mớ bái, bác cứ nói thế, bạn đọc chửi cho thối óc. Nói
cho đúng ra, tôi năng nhặt chặt bị chữ nghĩa của người
trăm năm cũ, để chẳng hay ho cũng húng hắng được một
vài...câu về ông ngoại tôi. Nào có khác gì bác vừa vay
mượn ca trù, đồng dao để hú họa tôi vừa rồi. Hay như
ông Khổng Khâu với thuật nhi bất tác, nôm na là chỉ thuật
lại chứ chẳng sáng tác chi. Ngắn gọn là tôi chỉ ăn đong
chữ nghĩa của người khác để...sáng tạo thế thôi. Hớ!
Bác ngùng ngoằng là: "Cái bệnh của những học giả, nói
theo Nietzsche, là không viết được gì nếu không dựa trên
trích dẫn của người khác. Chứ chả sáng tạo quái gì".
Bác lẫm đẫm thêm: "Sáng tạo của viết lách là sự nấu
nướng những gì có sẵn thành món ăn mới. Còn viết chữ
ư? Là bày biện món ăn với nhiều gia vị. Một phong hóa văn
chương, dàn dựng nhân sinh vào mâm cỗ ngôn ngữ đấy thôi".
Thôi thì bác nhiều chữ, bác bảo sao tôi nghe vậy. Vì chữ
Tây chữ u tôi rù rà rù rờ, ngay cả ông Anton Chekhov tôi cũng
lõm ngõm nữa là! Huống chi cụ Nietzsche! Chạy trời không
khỏi nắng với nhập thế tục bất khả vô văn tự, thì
nó nắng ưa không mưa không chịu là thế đấy. Ngày...tháng...năm... Bài
viết về ông ngoại tôi với cái bàn đèn qua truyện ngắn
"Chửi mất gà" thì tôi đã viết xong từ lâu. Mà cái tật
viết chữ để tiêu hóa thời gian để dính vào cái khổ nạn
tiêu pha chữ nghĩa làm tôi chống chếnh chung chiêng. Vì rằng
một ngày đụng vào ông làm văn Tô Văn, gốc Bắc, trước
75 ông nổi tiếng là ăn thịt chó, uống rượu, hút thuốc
phiện và lề mề rằng: "Hễ ghét thằng nào thì xúi nó làm
văn và hút thuốc phiện. Hễ nó dính vào nghề văn, hút thuốc
phiện là nghiệp rồi. Chả bao giờ khá được, khổ
như chó ấy". Thế
là cái thằng tôi ...dính! Nhưng
ấy là chuyện sau! Nay
tôi đang đi...tìm chữ về ả phù dung để có bài viết khác
thì lại bí chữ. Bác liu điu là cứ theo ông đồ nát chữ
Ngộ Không nào đó thì phù là nổi lên mặt nước, còn có
nghĩa khác là hư không. Phù dung là một loại cây sống trong
nước. Phù du là tiếng Hán, tiếng Nôm là con vờ vờ. Một
thứ côn trùng ban ngày bay ở trên mặt nước, tối hay bay
ở gần bóng đèn và...chết sớm. Phù dung và phù du chỉ đời
sống ngắn ngủi, vô thường. Đầu óc tôi đang rối tinh vì
hút thuốc phiện chả dây mơ rễ má gì đến cây phù dung,
con vờ vờ phù du với hư không, vô thường với...ả phù
dung. Thì bác đã lấy lửa thử vàng, đã giựt giọc "hỏi
thử" tôi vậy chứ cụ vua nào đầu tiên hút thuốc phiện
trong sử thi ta? Hơ!
Câu hỏi này khó nhai đây! Thôi
thì tôi cũng đành vật vờ theo con vờ vờ là: Thế
kỷ 19, người Anh, Pháp mang thuốc phiện từ Ấn Độ vào
Tàu gây ra Chiến tranh nha phiến. Đồng thời người
Pháp mang thuốc phiện vào nước ta để cụ vua đầu tiên
nhì nhằng đến á phiện là Hoằng Tôn Tuyên Hoàng đế Khải
Định. Hoằng
Tôn Tuyên Hoàng đế ngoài là cụ vua mê hát bội, cải lương
và ngay cả đào hát nữa. Ngay chính cụ vua múa bút tự trào
với khẩu khí chả biển ngẫu tí nào, thưa bác: - Xuân
xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc,
khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát,
khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tầu con đĩ xác, khi
nằm rạp thuốc phiện tiêm,
hoang ra dáng, rạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi,
miệng én đưa qua mùi gió thoảng. Ngày...tháng...năm... Ngỡ
xong cái nợ đồng lần, bác lại tha ma mộ địa với văn
học, ai là người hút xách đầu tiên. Nhiễu sự này trong
sách vở tam sao thất bản cũng có đấy, nhưng còn tồn nghi.
Vì rằng đầu thế kỷ 20 cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
có bài thơ Đi đong thóc: Trời
mưa, sắn ống cao quần Hỏi
cô bán thuốc trời gần hay xa Thân
anh đã xác như vờ Đồng
cân xin chị cho già chớ non Tôi
chỉ nghe hơi nồi chõ thế thôi, vì chưa ai viết cụ Tản
Đá hút thuốc phiện. Ngay cả giai thoại, nhưng đó là chuyện
cụ vào Sài Gòn trước năm 54...nấu phở. Nhưng tôi chịu
đèn...dầu lạc ở cụm chữ "xác như vờ" để tạm hiểu
thế nào là con vờ vờ xác như vờ với ả phù dung hư không
với vô thường. Nhưng trăm sự nhờ bác hỏi han, tôi mới
thông nõ điếu ra là nên bắt đầu chuyện bàn đèn từ đẩu
từ đâu. Rõ ra từ cụ Phan Khôi... *** Ngày...tháng...năm... Mạn
phép bác chứ, chứ tôi dùng chữ "rõ ra" vì bác ăn chữ mẻ
bát thiên hạ, bác biết thừa bứa khoảng thời gian này thuốc
phiện được người Pháp điều hành việc phân phối. Tiệm
thuốc phiện thời ấy có một bộ mặt rất Tây: Trước cửa
không treo bảng hiệu mà chỉ gắn một bảng trắng kẻ hai
chữ RO (Régie Opium) tức là Công quản thuốc phiện. Mùi thuốc
phiện nướng thơm phức như thúc giục khách bước nhanh vào.
Các bộ ván gõ bóng loáng với những chiếc gối sành mát
lạnh như mời khách ngả lưng. Trong
Người
Bình Xuyên tác giả Nguyên Hùng đã miêu tả: "...Hai
Vĩnh cúi xuống tấm cửa nhỏ tí ti, vừa đủ thò bàn tay
vào trao tiền và nhận thuốc phiện rót trong vỏ sò. Xong anh
đi thẳng vô trong, chọn chỗ nằm ưng ý. Anh cởi áo sơ mi
mắc lên móc, cởi giày rồi nằm xuống ván, kê đầu trên
gối sành.Trong
buồng, một lão ốm tong teo lui cui rót vài giọt đen sệt vào
vỏ sò. Một a xẩm mang vỏ sò "vàng đen" ấy đến tận nơi
Hai Vĩnh nằm. Anh ra dấu bảo a xẩm làm thuốc cho mình. Với
ngón tay điêu luyện, ả hơ các giọt đen sệt ấy trên ngọn
đèn dầu lạc. Hai Vĩnh rít một hơi. Khói thơm phả ra cuồn
cuộn. Anh có cảm tưởng như thoát trần, thân xác nhẹ nhàng
như bay bổng trên mây.Làm
đủ một cặp, thấm thuốc anh nằm đê mê, nửa say nửa tỉnh.
Bao nhiêu ưu phiền, nghèo túng, đều bay theo làn khói về chốn
hư vô..". Ngày...tháng...năm... Trăm
sự ở một nhà văn hóa cổ đại, hiểu theo nghĩa ông là
người làm văn chương đã lâu năm, tuổi tác đã khọm và
cũ kỹ lắm rồi. Ông cảm khái khi đi kháng chiến: "...Thập
niên 50, khói lửa bùng lên khắp nơi. Tôi tạm rời về miền
duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, một hôm, tôi nhận được
từ Thái Nguyên gửi về cái phong bì ngoài đề: Vũ Hoàng Chương, Bên
trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi. Ngừng
tim lặng óc bặt giòng tình
Theo
tôi, thơ cũng không xuất sắc gì cho lắm, nó được nhiều
người biết vì nó là thơ ông Phan Khôi. Bài thơ được lưu
hành có một chữ khác với bài thơ VH Chương nói là ông Phan
Khôi gửi riêng cho tôi. Bài thơ theo VHC: "Thứ ấy từ lâu
không có nữa..." Bài
thơ của Phan Khôi nhiều người có thì lại là: "Thú
ấy từ lâu không có nữa...". "Thứ"
và "thú"
chỉ khác nhau tí síu nhưng ý nghĩa khác nhau xa. Có người
bình loạn bài thơ trên nói rằng cái "thú ấy" trong thơ Phan
Khôi là cái thú "nằm với đàn bà", nhà thơ than lâu rồi
ông không có cái thú dâm đàn bà nữa. Tôi không nghĩ ông
Phan Khôi lại than như thế, tôi nghĩ tiếng đó phải là "thú",
không phải là "thứ", nhưng cái "thú" của nhà thơ Phan Khôi
không phải là cái thú hành dâm với đàn bà. Ông Phan Khôi
đong thóc (*)
. Thi bá VH Chương cũng đong thóc. Khi hai đệ tử của Cô Ba
gặp nhau việc phải xẩy ra là họ đưa nhau về đến bàn
đèn. Ông Phan Khôi về Trong
bài thơ của ông Tú Khôi, cái "thú" ấy không phải là cái
thú chơi đàn bà mà là thú đi mây, về gió, thú hít tô phê,
thú phi yến thu lâm. Từ ngày lên Việt Bắc ông Tú Khôi không
còn cái thú hít tô phê nữa. Rất có thể bài thơ ấy được
ông Tú Khôi làm để gửi riêng cho Thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Ông VH Chương đã không viết đúng sự thực, ông đã không
viết ông Phan Khôi than với ông là lâu rồi ông không còn
cái thú hít tô phê, ông VH Chương sửa thơ ông Phan Khôi từ
"thú" ra "thứ". Tôi thấy Thi bá VH Chương không lương thiện
nếu quả thật ông sửa thơ ông Phan Khôi. Riêng tôi, tôi nghĩ
rằng Thi bá đã sửa lời thơ ấy từ "thú" ra "thứ". Tôi
không tin chăm phần chăm ở việc "nói có sách, mách có chứng.."
Sách có nhiều sách sai be, sai bét, còn chứng thì rất nhiều
khi toàn là chứng láo khoét...". *** Ngày...tháng...năm... Nghe
thủng chuyện người làm văn chương khọm khú đế, bác chả
mấy vui. Bác ngầy ngật: "Qua mâm cỗ văn chương như trên
thì phải chấp nhận cái sống sượng của người sào nấu
chữ nghĩa. Người đọc văn phải ngậm đắng nuốt cay mà
nuốt tiếp cái phong hóa văn chương này". Trộm ý bác, tôi
cắc ca cắc củm với truyện ngắn Ông Năm chuột của
cụ Phan Khôi rằng không có lửa sao có khói: Ngồi buồn đốt
một nhúm rơm - Khói lên nghi ngút chẳng thơm tí nào - Khói
lên đến tận thiên tào - Ngọc hòang phán hỏi đứa nào đốt
rơm. Còn
"đứa nào đốt rơm chẳng thơm tí nào" nằm tít ở khúc sau. Với
truyện viết của cụ Phan Khôi gặp một người cùng làng
tên Năm Chuột. Ông này làm nghề thợ bạc mà cụ không quen
biết nhiều lắm ngoài cái tên: "...Người
ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi
chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay còn
cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc
tẩu. Nó là cái ống tròn mà dài, thấy thoáng như có khảm
xà cừ và bịt bạc, bịt vàng gì đó. Tôi đã cáo về rồi,
không ngờ ra khỏi cổng một chặng, nghe có người chạy theo
đằng sau gọi tôi đứng lại, thì ra là người thấy
lúc nãy. Anh ta tự giới thiệu:
-
Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc tẩu thế này
mà cầm trả có 5 đồng bạc. Bỗng
dưng anh ta cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:
-
Sao vậy? -
Quan lớn xưa cùng mấy ông em lập một bản "gia ước", trong
đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm
thì trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm.
Ðủ biết là ông cậu của cậu là vậy đó: cái gì cũng
làm nghịch lại với cha.
Thầy
tôi bảo:
-
Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Ðông bàn
(nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) thì có, còn nhà Xuân Tài,
tao không nghe. Ðến
lúc tắt đèn, đi ngủ rồi, thầy tôi còn nói một mình:
Một
hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ,
trên đặt cái bàn đèn, ngoài ra là cái lò bễ bạc để ngay
chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh,
hắn ở trần, ngồi cạnh cái lò bễ đang hơ cả người trên
lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói:
tắm
bằng nước.
*** Bỗng
dưng bác ngáp: "Cái thằng láo quá!". Xin lỗi bác núc nắc
gì tôi nghe không ra?Nhưng ấy
là chuyện của bác.... Vì
lúc này tôi phải khăn gói gió đưa ri cư vào Thôi
thì với một mảng văn chương, bác cho tôi hoài đồng vọng
một chút về Hà Nội qua nhà văn Mai Thảo: "Trở
về những mảnh tôi xưa, những hình ảnh muôn thuở của Hà
Nội chưa tiều tụy. Tiếng gió HồngHà
mùa nước lũ. Tiếng còi tầu Long Biên. Tiếng tỳ bà Ngã
Tư Sở đìu hiu lau lách. Tiếng tom chát ngõYên
Thái. Tiếng khí phách Khâm
Thiên...". Nhà
văn Mai Thảo hoài niệm ông bạn Thần Tháp Rùa viết về Hà
Nội với nhiều dấu chấm đậm đặc, phiêu bồng đâu đây
ngào ngạt hơi hướng của ả phù dung với khói mây mịt mùng
ở ngõ Yên Thái, khu Khâm Thiên. Và tôi nhớ lất phất ai đấy
đã viết Mai Thảo trong đêm cuối năm, sau một canh chắn cháy
túi, phải đi về vì để chủ nhà đón giao thừaXuống
nhà chẳng biết đi đâu, một bạn văn, cũng là bạn của
nàng tiên nâu hỏi: "Đi không". Và Mai Thảo lừng khừng: "Ừ,
đi thì đi" và khật khừ leo lên...xe xích lô. Ngày...tháng...năm... Tôi
và bác nằm bẹp dí trên tầu há mồm vào Sài Gòn... Nằm
không chả biết há mồm ngả ngớn gì, hay là bác để tôi
khoe mẽ với đi tìm...chữ đâu có ngon ăn như trứng luộc.
Vì giống nhà văn Đêm giã từ Hà Nội, tôi
như con lươn bỏ rọ với nhà văn Thạch Lam. Nhà
văn Hà Nội 36 phố phường có nong nia với thuốc phiện
hay chăng thì nó còn đó có đó. Nó ẩn nấp nằm ở "1" câu
qua một bài viết trong kho chữ như bác ấy thôi. Ấy là chưa
kể lắm khi mầy mò vào kiếm "1" chữ nhất tự thiên kim,
vậy mà nó trốn biệt trong ngõ ngách nào đấy mà mò mẫm
tìm không ra. Mà cũng nhờ cái túc duyên mò mẫm ấy tôi mới
gặp bác để ăn mày chữ nghĩa. Mà bác ăn chữ mòn răng,
bác có hay cái điếu cày cùng giuộc với cái tẩu thuốc phiện
chăng? Như đợi dịp này lâu lắm rồi, thế là bác sống
sít mang ông bạn bác ra khoe chữ. Cứ như qua ông đồ bát
nháo Ngộ Không...ngộ chữ thì cái điếu cày được thợ
cày cưa, cắt từ khúc tre bánh tẻ. Tiếp, bác đục đẽo
không đâu là cái điêu cày chả danh gia vọng tộc gì cho mấy.
Thế nhưng trong văn học nước nhà tự cổ chí kim không thứ
gì tiêu pha nhiều chữ nghĩa về cái điếu cày đến như thế:
Từ cái chiếu, cái chổi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Kể
cả cái tẩu thuốc phiện. Hơ!
Nói dại chứ giầy dép còn có số, chứ theo cụ Nguyễn Du
qua bài Điệp thử thư trung thì bác chạy trời không
khỏi số, số bác nặng nợ chữ nghĩa với: Đố
ngư dị tỉnh phồn hoa mộng
- Văn đạo dã ưng cam nhất tử.
Số bác phù dung như con vờ vờ:Bạc
mệnh hữu duyên lưu giản tịch
- Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.
Thế nên bác là hậu duệ của con điệp thử thư trung, con
đố ngư. Là con mọt chữ, bác nhúm nhó cái điếu cày thuộc
về văn hóa dân gian chẳng qua là...cái số nên được nhiều
người mục sở thị. Với
tôi, cái tẩu thuốc phiện chỉ là kẻ hậu sinh. Thế nên
tôi cùm nà cụm nụm đắp chữ vá câu là cái dọc tẩu giống
như cái điếu cày không ngoài được đắp vá thiếc, đồng,
bạc cho oách và cái nõ là cái nồi ống bằng kim loại. Mỗi
khi hút, mấy ông bắn khỉ nằm tựa bên cạnh bàn đèn, đưa
cái nồi ống hơ trên chiếc đèn dầu lạc. Khi thuốc phiện
bay hơi, mấy ông bắn khỉ bèn bắn một phát, hiểu theo nghĩa
bắt đầu hít vào để "phê". Vì vậy mới có cụm từ "hít
tô phê" với bắn "ba-zô-ca" là thế. Ý đồ tôi là trong văn
học cũng có những từ mới mẻ một thưở một cõi như:
"phê", "hít tô phê", "bán khỉ", "ba-zô-ca" là vậy. Còn
đục chữ đẽo câu đến như ông đồ chữ nghĩa như trấu
chát Ngộ Không bạn bác cũng...ấy ái uông thôi. Số
là tậm tịt thế nào chả biết nữa, chả mấy ông bắn khỉ
nhà văn, nhà thơ nào có chịu viết về cái bàn đèn với
khẩu"ba-zô-ca". Như truyện ngắn tựa đề Cái dọc tẩu
của nhà văn tiền chiến Bùi Hiển. Truyện dài "4" trang: Ngoài
cái tựa đề! Tôi bới bèo tìm bọ lõ mắt tìm không ra chuyện
hút thuốc phiện, cái bàn đèn. Mà chỉ thấy có duy nhất:
"1" câu với "25" chữ. Trong 25 chữ có "2" chữ về cái tẩu
thuốc phiện: "Anh gạt tay lão ra, lão càng xán vào vừa ấn dọc
tẩu lên miệng
anh vừa nói gì rất to gần như xỉ vả". Viết
về hút thuốc phiện không ngoàiVũ
Bằng với nhân vật chính là tác giả xưng "ông" qua tự sự
Phù
dung ơi! Vĩnh biệt!. Chẳng
qua vì "vĩnh biệt" thì ông mới viết: "...Ông
nhớ đến cái cảnh linh lung ở tiệm, đây đó có mấy ngọn
đèn dầu mờ tỏ. Cảnh đó "gợi" lòng người nghiện lắm.
Thế mà ông không được hưởng. Lòng ông rộn rã như có
ai vò xé. Tai ông ùm lên...Ông nhớ đến tiếng nói của ông
chủ tiệm? Đến tên bồi tiêm mỗi khi làm xong điếu thuốc
lại cầm tiêm gõ vào độc tẩu mời ông xơi?...". Hoàng
Cầm qua nhà văn Nguyễn Quang Lập: "Cụ nói một ngày tôi
chỉ làm vài điếu. Mình hỏi ai đưa Cụ nói..."họ
cho". Mình biết "họ" là ai rồi nên chẳng cần hỏi thêm.
Lát sau đến giờ về, cụ kéo
tay mình, nói "ở đây ai có điếu cày không, mượn giúp
tôi cái, thèm thuốc lào" quá. Mình ngồi thừ hồi lâu,
buồn và ân hận". Như
đã thưa với bác, những nhà văn thời tiền chiến không hút
lại lân la đến cái bàn đèn như Bùi Hiển, như Vũ
Trọng Phụng. Sau 54, Đinh Hùng của miền "Trên
giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén
và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc
phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa "giang sơn" của
anh, vừa "dìu hồn theo cánh khói" vừa tìm ý thơ Đường
vào tình sử.". Như đường
vào tình sử,tôi
trên đường đi tìm nó! Thưa bác. *** Ngày...tháng...năm... Vào
đến Sài Gòn, mò mẫm theo những người viết trước, tôi
mới hay nổi tiếng có tiệm Amy ở đường Hàm Nghi. Ngoài
ra còn phải kể đến tiệm hút d’Ormay ở đường Nguyễn
Văn Thinh, ngay sát đường Catinat. Ấy là năm 54, vì còn nhiều
nữa nằm rải rác qua những người viết khác dàn trải như
tiệm Ba Lân, A Coón ở Bàn Cờ, tiệm Ðinh Quát, vòm Tư Cao
gần Trường Ðại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng. Và
tôi đi tìm...chữ cho bài viết qua Trần Lam Giang mới "làm
quen" được với cụ Vũ: "...14,
15 tuổi tôi học Chu Văn An và học với thầy Vũ Hoàng Chương...Thầy
tới trường bằng xích lô đạp. Thầy mình hạc, mảnh khảnh
trong bộ đồ complet-gabardin trắng, tứ thời. Chiếc mũ phớt
trắng, tứ thời. Chiếc cặp da nâu mỏng, tứ thời khi vô
lớp. Rồi Thầy nhìn lên trần nhà bắt đầu nói. Có lúc
Thầy nổi hứng ngâm thơ sang sảng. Hết giờ nhưng học trò
còn chưa ra khỏi giấc mơ văn thơ VN. Hêt giờ, Thầy ra về,
ra khỏi lớp, mặt ngước cao, nhìn mây trời, nghe chim hót...". Đến
dây, tôi tiếp nối với Trần Lam Giang là đồng môn với tôi
và hoang tưởng đến cụ Vũ ngoài sân trường nhìn trời nghe
chim hót và ngâm nga bài "Quên" Đã
hẹn với em rồi, không tưởng tiếc Quãng
đời xưa, không than khóc gì đâu Hãy
buông lại gần đây làn tóc biếc Sát
gần đây, gần nữa, cặp môi nâu "Em"
đây là "nàng tiên nâu" ái ân với cụ Vũ. Và trong "quãng
đời xưa" ấy người thơ nhả khói làm thơ về thuốc
phiện. Nghe chim hót ríu rít xong, bác năm nắm hỏitôi
làm quen với cụ Vũ, tôi có lân la "quen biết" với cô ba phù
dung không? Ừ thì cũng đành năm nắm nem nép với bác là tôi
chỉ kể chuyện thôi. Chuyện kể trên giấy không có những
nhịp điệu diễn biến, bác chả tìm thấy những nhân vật
hấp dẫn. Chả như bác đã dậy là không có công thức nào
cho sáng tạo văn chương, viết chỉ lã những gợi mở và
trình bày. Viết là để Đi tìm thời gian đã mất như
của Marcel Proust. Hoặc như người mươi năm cũ với biên khảo
không phải là tùy bút mà là...ký. Nhưng tôi lại hiểu bừa
là ...nhật ký, thế nên tôi lực đực với ngày...tháng...năm...trong
bài viết này là thế. Là
đi tìm thời gian đã mất, tôi vần đang đi tìm nó. Nhưng
vẫn chưa thấy, thưa bác. *** Ngày...tháng...năm... Ngoài
chuyện đi tìm...chữ, chuyện tôi đi tìm thời gian đã mất
nằm cheo queo ở khoảng thời gian, không gian nào tôi...đếch
nhớ, khỉ thế đấy. Mà chỉ nhớ tôi hay nèo neo ở quán
cà phê của một ông Tàu Hải Phòng tên Phong. Vào Bắt
gặp chữ "phong", như gặp mưa chiều gió sớm, bác lại được
thể mọt sách nho phong sĩ khí với "yên" là thuốc phiện,
"foóng" là dân làng bẹp. Dân hút thuốc phiện được gọi
là "làng bẹp" vì cái tai họ bị bẹp dí do nằm hút lâu năm.
Khiếp! Sao bác đào đâu ra chữ nhiều quá thể! Mà tôi kể
đến đâu rồi nhỉ? Hơ! Nhớ ra rồi, là nhờ đến quán cà
phê. Tình cờ tôi...mới có túc duyên gặp thằng con ông Phong
tên Phát ở...Ngã Ba Chú Ía. Rất thật với bác, tôi không
hay thằng của nợ này có tí máu nghiện như bố nó! Cho
đến một hôm, nó đèo tôi trên xe Honda và kể lể là một
lần nó bị đau bụng. Bố nó cho nó "phê" để hết đau bụng.
Tôi lưỡi đá miệng hỏi nó lần đầu "phê" có...phẻ chăng?
Nó hươu vượn lúc đầu "phê" muốn ói mửa và còn đau bụng
nữa, thế mới khỉ. Khỉ gió gì đâu, đột nhiên nó chở
tôi tới con ngõ bên cạnh Viện Đại Học Vạn Hạnh và đi
thẳng vào vòm Tư Cao cho nó "phê" một cữ, vì nó "đói thuốc"
rồi. Thế mới bỏ bu! Tới
cửa, tôi đang bần bật, thằng của nợ đe nẹt tôi: "Sợ
thì đừng có hút, say đấy". Câu nói vô tình của nó khiến
tôi chợt nhớ đến câu viết sau này của nhà văn Duyên Anh
trong Sài Gòn ngày dài nhất, diễn tả tâm trạng sợ
hãi của người ở lại Sài Gòn trong ngày 30/4/1975: "Thuốc
phiện lâu say mà say lâu. Và hễ say, dao kề cổ vẫn...tỉnh
bơ, bởi chả còn ý thức nổi không gian, thời gian, nói
chi sự việc quanh mình. Dẫu mắt vẫn mở. Mắt mở không
phải là thức. Dù mắt nhắm. Mắt nhắm không phải là ngủ...
Giá tôi được chết say thuốc phiện, tôi sẽ hoan hỉ vô
cùng. Tôi sẽ vượt khỏi sợ hãi chờ chết". Thế
là tôi...tỉnh bơ đi vào, và gặp cô chủ bàn đèn mắn chuyện
là đã thấy...say tình rồi. Âu là số ruồi. Cô, mắt liếc
xéo, miệng xắng xẻ rằng hút thuốc phiện khó lắm, nhiều
người hút lần đầu, một là chả mấy khi kêu thành tiếng.
Hai là sẽ bị nhâm nhẩm đau bụng, như thằng của nợ tháo
ống cống với tôi trên xe Hongda. Nó thật với bác, chuyện
này tôi chỉ kể cho bác nghe thôi, chứ mang vào bài viết bạn
đọc chửi cho mục mả. Lạy
thánh mớ bái, bác tha cho: Số là cô chủ vừa cúi xuống lui
cui tiêm thuốc cho nó, đập vào mắt tôi là một mảng ngực
to bằng cái đèn dầu lạc. Chứ chẳng phải vì tức khí,
vì sợ quái gì như Duyên Anh. Vừa lúc thằng của nợ vác
"ba-zô-ca" bắn kêu "ro..ro.." nghe quá đã. Thế là được thể
mảng ngực kéo thêm cái đèn dầu lạc chui tịt vào đầu
tôi vất vưởng với: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt,
còn hơn le lói cả trăm năm. Thằng tôi bèn "ngả bàn đèn"
làm một điếu cho...nhân sinh quý thích chí. Tôi tham thiền
nhập định thở ra một hơi ngắn, nhắm tịt mắt hít vào
một hơi dài và "hít" thẳng băng một hơi lâm ly quy phượng
như ông ngoại tôi nghe "ro..ro.." ngon ơ. Mô Phật, cô chủ bàn
đèn cùng cục khen thằng tôi...có khiếu trên đời ít thấy.
Từ đó tôi chừa và cạch đến già. *** Thấy
bác không mắn chuyện cái đèn dầu lạc, hay là tôi bắt qua
chuyện khác vậy... Ngày...tháng...năm... Chuyện
là tôi lại gặp lại cây đa cây đề tức nhà văn hóa cổ
đại, là người làm văn chương khọm khú đế qua một bài
viết. Và cũng là cái cớ để tôi trở lại chuyện Ngọc
hòang phán hỏi đứa nào đốt rơm ở trên để chẳng
thơm tí nào như thế này đây: "...Trong
những lần về Hà Nội vì việc quan, ông ngoại tôi gặp lại
những ông bạn đồng liêu cùng Hội Hít Tô Phe với ông. Các
ông gặp nhau bên bàn thờ Cô Ba Phù Dung, chuyện các ông nở
như gạo rang. Tôi không giấu chuyện ông Ngoại tôi nghiện
thuốc phiện, tôi cũng không giấu chuyện tôi có một thời
là Lính của Cô Ba Phù Dung, thời đăng hỏa, tức thời đèn
lửa của tôi dài lâu đến 10 mùa hoa anh đào nở. Trong những
người viết trẻ chỉ có tôi là bạn bàn đọi với anh Côn,
anh Ðinh Hùng. Không có gì để khoe về việc hút xách nhưng
năm tháng xưa đã qua rồi; anh Nguyễn Mạnh Côn, anh Ðinh Hùng
đã thành người thiên cổ. Tôi không nghiện vì anh Nguyễn
Mạnh Côn, khi tôi thân với anh, những năm 1964, 1965, tôi đã
là đệ tử của Cô Ba Phù Dung lâu rồi. Nhà
anh trong Cư Xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, nằm hút với anh;
anh có bàn đèn ở nhà, nồi ống, đồ nghề tốt hơn của
anh Ðinh Hùng. Anh làm thuốc tôi hút, vì việc tiêm thuốc cho
tôi làm anh mệt, tôi hút nhiều, anh làm thuốc mỏi tay. Tôi
không thoải mái khi anh phải nằm tiêm thuốc cả giờ cho tôi
hút. Như
đoạn viết về ông Ngoại tôi với câu kết mà bất cứ người
viết nào có chút thông minh nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng
cũng không hạ bút. Ðó là câu: "Ngày xưa... tri phủ, tri
huyện nào mà không nghiện thuốc phiện...". Ngày xưa, tức
là trước năm 1945, tất cả những ông tri phủ, tri huyện
của ta đều nghiện thuốc phiện? Quái
dị. Viết như dzậy mà viết được. Hết nước nói...". Khi
không bác nhai văn nhá chữ: "Văn chương chữ nghĩa gì mà bày
biện vụng về trên mâm cỗ tràn ngập đồ ăn chưa kịp nấu,
sống sượng và thô thiển. Ngôn từ ngộp thở trong cái sống
sượng chưa tiêu hóa như của những làng xã đất Bắc. Thêm
một lần bác lụng bụng gì tôi không hiểu? Hớ! Hóa ra, bác
mọt sách ăn giấy, ăn chữ đã lâu nay chỉ thích nói chuyện
bếp núc. Có vậy thôi mà tôi vặn óc nghĩ không ra. Ngày...tháng...năm... Cây
đa cây đề nhắc đến Nguyễn Mạnh Côn thì tôi chả có lý
do gì không rù rì đến tác giả Mối tình hoa anh đào, qua
nhà văn Thế Uyên: "...Tôi
kiếm ra nhà anh không khó. Mặc dù là buổi trưa và có hẹn
trước, cửa sắt có những tấm chắn mỏng khóa kín. Chị
Côn ngó ra nhận diện tôi rồi mới mở cửa và mời tôi lên
thẳng căn gác gỗ phía trên. Nguyễn
Mạnh Côn Tranh
Chóe – Nguyễn Hải Chí Anh
đang ngồi cạnh bàn đèn, ngọn đèn dầu lạc cháy sáng, mùi
khói thuốc phiện đang bay thoang thoảng trong không khí. Chắc
anh đang hút cữ buổi trưa và dĩ nhiên cửa đóng then cài. Anh
thoải mái tiếp tôi cạnh bàn đèn và tôi cũng thoải mái
đến ngồi trên chiếu phía bên vì anh biết rõ ông bố tôi
cũng là người nghiện thuốc phiện mới cai sau khi di cư vào Tôi
đã chấp nhận từ đã lâu sự nghiện ngập như là một khuyết
điểm của bố mình, và nếu sinh ra làm con đâu vì bố mình
nghiện mà phủ nhận bố đâu. Cũng vì thế giao tình của
Nguyễn Mạnh Côn và tôi cứ thế diễn ra hai bên ngọn đèn
dầu lạc. Qua
ngọn đèn dầu lạc với anh Côn, một lần tôi hỏi anh Nguyễn
Mạnh Côn tại sao anh nghiện, anh đã trả lời ngay thẳng đại
khái là nghe nói thuốc phiện làm tăng hưng phấn về tình
dục và kéo dài được lâu cuộc làm tình, anh đã thử. Khi
tôi hỏi kết quả có đúng thế không, anh đã cười cho biết
là đúng, nhưng rồi anh...thở dài rất nhẹ: Nhưng chỉ
trong thời kỳ đầu mới hút thôi, khi đã nghiện rồi mọi
sự trở lại bình thường...". Bác
cũng thở dài rất nhẹ và nhìn tôi. Thì tôi vẫn còn đang
đi tìm nó đây, thưa bác. *** Ngày...tháng...năm... Khi
không dẫn xác qua đây xin nhận nơi này làm quê hương. Tới
tuổi tịch dương vô hạn hảo lại mon men làm quen với cái
thú chơi đồ cổ qua một thằng bạn đời. Nó dẫn dụ tôi
với đồ cổ là "nhất cổ nhì quái", cho đến một lúc nhà
tôi không còn chỗ nào để nhét ba thứ cũ sì cũ mốc ấy
nữa. Nhưng tôi không quên một chuyện một lần nó kể tôi
nghe. Chuyện
là một ngày không nắng cũng chẳng mưa nó ghé tiệm đồ
cổ của một lão Tầu già dưới phố và đập chát vào mặt
nó là cái tẩu thuốc phiện. Hỏi giá nhiêu, trả lời 500.
Ấy là thập niên 80, bộ tiền chùa sao, lương 7 đồng 1 giờ.
Nên đành về. Sang năm trở lại chốn cũ, cái tẩu thuốc
phiện vẫn còn nằm đấy. Lại hỏi giá bao nhiêu, lại được
trả lời 1000. Năm sau nữa, quay lại tiệm đồ cổ thì cái
tẩu thuốc phiện biến mất. Bèn
há họng hỏi?. Ông Tầu già mặt nghiêm và buồn: 1500!. Một
ngày cuối tuần, hai thằng đang ngồi xơi phở, bỗng nó hỏi
tôi: "Đi săn đồ cổ chứ?". Bèn trả lời: "Còn chỗ đâu
mà chứa!". Đột nhiên trong cái đầu đất chui ra cái tẩu
thuốc phiện và nghĩ dám "của đi tìm người" lắm ạ. Nên
gật đầu cái kịch. Đầu
gật nhưng nghĩ không ra cái tẩu của ông ngoại tôi, hay đi
hút với thằng bạn làm bằng gì? Gỗ hay tre? Lại khăn gói
gió đưa thuốc phiện khởi thủy từ Ấn Độ mà tôi góp
nhặt sỏi đá thì cái tẩu họ làm bằng ...thân cây ớt.
Bác râm ran rằng nói thế mà nghe được, bạn đọc chửi
cho thối óc. Hớ! Thế thì Tàu vặn vẹo cái tẩu giống "cái
tù và" bằng sừng trâu, sừng bò. Họ uốn éo ra con hạc với
chân, mỏ dài ngoằng và "hít tô phê" ở đầu con hạc thì
bác có nhức óc chăng? Nói xa chẳng qua nói gần là từ thưở
xa xưa, từ Tàu đến Ta, cái tẩu thuốc phiện hình thể là
cái bình tích tròn, hay vuông mà tôi mục sở thị hình chụp
năm 1820. Gần đây ngoài tre, gỗ, nó được làm bằng ống
bạc, ống đồng, ống xương, ống thủy tinh, đá cẩm thạch
xanh, trắng. Gần hơn nữa, lịch sử là một cuộc tái diễn
không ngừng với làng gốm Bát Tràng. Họ làm chơi ăn thật
cho du khách...xem chơi, nó làm bằng sành hình thể lại giống
cái tù, cái bình tích và thêm..."cái trống cơm". Thế
là hai thằng nhắm tới một quận lỵ cách thành phố gần
hai giờ lái xe. Nơi đây có mấy chục tiệm đồ cổ, một
rạp "mô-vi" cổ lỗ sĩ, một tiệm "nhét-dô-răng" và một
quán "sa-lun" cũng già lão không kém. Quận lỵ có những dấu
tích còn rơi rớt lại của những người Ăng Lê, Tô Cách
Lan, Ái Nhĩ Lan mà họ sang đây khai phá vùng đất mới từ
thưở tám hoánh nào rồi. Nay những ông bà già khú đế, con
cháu của họ, đến đây để nhặt nhặn những cổ vật của
tổ tiên, của quá vãng, ôm giấc mộng hoàng lương: Ta về
tắm lại dòng sông cũ – Truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên.
(thơ Tô Thùy Yên). Bác
lâm râm rằng ở cái đất chó ăn đá gà ăn muối nay toàn
là đồ tây, đồ sành, đồ đồng thì xách bác tới làm chi
vì chả có gì cho bác...thực bất chi kỳ vị. Ấy đấy, bác
nằm trong xó bếp đâu có hay năm thì mười họa lọt xàng
xuống nia rơi rớt lại nhăm cổ vật của Tàu, của An Nam
ta. Mà mấy thứ lạc tinh, lạc quẻ này với mấy ông tây
bà đầm lại rẻ như bèo nên tôi đã từng tha về hai ba món
của làng Bát Tràng. Vì vậy hai thằng Mít da vàng cứ: Tưởng
tượng ta về nơi bản trạch - Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn. (thơ
Tô Thùy Yên)và
thẩn thơ, thơ thẩn đến chiều mới về. Trở
về qua đầu thị trấn buồn hiu hắt, tôi chợt nhìn thấy
tiệm đồ cổ đầu tiên lúc đến không ghé. Nhìn đồng hồ
còn sớm chán nên tạt vào xem. Va vào mắt tôi là...cái tẩu
thuốc phiện. Nhòm giá: 50. Bèn lật ngửa cái tẩu thuốc phiện
bằng tre thấy nứt một đường dài. Mà đồ cổ bị mẻ,
vỡ thì không có giá trị, nhưng ai biết đó là đâu vì nó
nắm dưới cái dọc tẩu. Bèn khiêng ra xe. Bê
nó ra xe mà đầu óc tôi óc ách. Vì cái tẩu thuốc phiện
y trang như hình chụp trong quyển cẩm nang chơi đồ cổ mà
tôi có ở nhà. Ấy là chưa kể giá cả còn bộn hơn cái tẩu
thuốc phiện của lão Tầu già dưới phố qua chuyện thằng
bạn tôi. Và tôi ôm nó khư khư trong cái tâm thái...của đi
tìm người. Thêm nữa, đó là cái tẩu thuốc phiện của những
người Tàu qua San Francisco từ năm 1907 làm đường xe lửa
trước tôi cả trăm năm với cùng một lứa bên trời lận
đận. Ý đồ tôi là đại hạn phùng cam vũ, tha hương ngộ
cố tri này kia, kia nọ với hà tất hằng tương thức? Lọ
sẵn đã quen nhau? Ừ thì như bác đã biết đấy, tôi vừa
gặp lại một vật thân quen từ cái tuổi tập làm người
lớn với nhang khói hương đèn. Dù chỉ một lần trong đời,
với một nhớ hai quên, thưa bác. *** Thôi
thì đến lúc bài viết tẩu thuốc phiện thiên cổ sự nên
ngừng lại. Vì như ông Nietzsche của bác từng cục ta cục
tác: "Con gà mà trứng nhiều thì trứng sẽ nhỏ đi". Mà cái
dở của tôi là nhiều chữ quá mà không nói lên được điều
gì sất cả. Học theo bác, đồ ăn đã được nấu nướng
xong, mâm cỗ chữ nghĩa đã được bày biện gọn ghẽ. Bác
thêm bát thêm đũa là cốt truyện đừng xào nấu quá kỹ,
ăn sẽ nhạt nhẽo...vô vị, vì vậy cần phải có nhiều...gia
vị. Bác còn động dao động thớt là viết như bằm chữ
để bạn đọc ăn ...ngôn ngữ! Chứ không phải cốt truyện
như rang cám, tình tiết như thái bèo cho lợn ăn!. Vậy
mà chưa xong với bác. Bác lụi đụi rằng "vào chuyện" cho
bài viết là một chuyện, còn "hết chuyện" là một chuyện
khác. Hớ! Bác mọt sách mọt chữ cho lắm cũng bằng thừa
vì "hết chuyện" bài viết của tôi chỉ đúng "5" chữ...hết
biết!. Tôi
đồ là bác chả cần bòn mót thêm "1" chữ nào cho nó cả!
Dạ thì nó đây, thưa bác: -
Tôi đã tìm ra nó. Thạch
trúc gia trang Xuân
sinh, Quý Tỵ 2013 Ngộ
Không Phí Ngọc Hùng Cây
thuốc phiện Chú
thích: (*) Theo
bà Phan Thị Mỹ Khanh trong hồi ký "Cha tôi: Ông Phan Khôi" thì: "...Trong
khi dạy tôi học người chỉ dùng cái miệng còn hay tay chỉ
để dùng vào cái việc cần thiết của người: lúc thì đưa
mũi tiêm lên ngọn đèn, lúc thì lăn lăn nó nhanh thoăn thoắt
trên cái mặt tẩu. Nhưng lúc người quay cái đầu dọc tẩu
vào miệng và cai tiêng ro ro trầm buồn đang kéo dài, là tiếng
nói người hoàn toàn im hẳn. Tôi cũng lặng im, đợi cái phút
mà từ hai lỗ mũi người bay ra hai làn khói xanh quyện vào
nhau rồi tan mác trên không, người bắt đầu giảng tiếp.
Thấy tôi chăm và chóng kết quả, Thầy tôi rất bằng lòng.
Nhưng tiếc thay ước vọng của con người và chí nguyện của
tôi nửa chừng đành bỏ dở vì lúc sau nầy người cai thuốc
phiện...(khoảng năm 1930 ở làng Bảo An, Quảng |
|