Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Chuyện
gã kể không phải dễ viết, bởi lẽ đã có nhiều người
viết rồi. Như một nhà văn nào đó ai oán: “Vào cái lúc
tôi bắt đầu viết, những điều tôi cho rằng cần được
viết ra đều đã được viết ra bởi những người đi trước.
Những mất mát đau thương, những tủi hờn vong quốc, những
đất khách bơ vơ, những qua sông nín thở. Và còn nữa, những
máu lệ ngục tù, những hồn oan ngọn sóng, những đáy biển
vùi thây”.
Nhưng
may quá là may, nghe qua chuyện kể,...những máu lệ ngục
tù,...những tủi hờn vong quốc cũng đều có cả đấy.
Chỉ khác một nhẽ chuyện của gã là gã bị bắt làm tù
binh. Nhưng chẳng may gì! Bởi nhẽ thiên hạ sự đi nhẩy dù,
thủy quân lục chiến, đánh đấm từ trên trời xuống, từ
dưới nước lên thì gã trên răng dưới lựu đạn được
tạm coi như là “hình nhân thế mạng” cho lính...địa phương
quân! Với địa là đất, suốt ngày đào đất ngồi dưới
hố cá nhân thì văn dĩ tải đạo cái khổ nào. Khó khăn thật
chứ đâu có đùa!
Khó
hơn nữa với một nhà văn ngoại quốc: ‘’Không việc gì
phải lo tìm bằng được những cốt truyện thật lắt léo, chi
tiết vô bổ, không có thật’’.Nói
cho ngay...cốt truyện đã có sẵn rồi đây, và không...lắt
léo cho mấy, như: Gã, trung úy bộ binh Sư đoàn 1, bị bắt
làm tù binh, bị đưa ra Bắc. Vào lại Nam rồi vào trại cải
tạo như bất cứ ai. Còn...chi
tiết vô bổ! ư? Bung bét ra như thế này: Vào trại
cải tạo, gã đi chặt tre rừng. Đang lom khom chém tre, đẵn
gỗ trên ngàn, hữu thân hữu khổ, chưa biết phàn nàn cùng
ai thì bị cái gai đâm bu nó vào mắt, phúc bẩy mươi đời
chưa mù. Chưa kể đi H.O. với bút sa gà chết trong giấy ra
trại bị ông cán ngố phóng bút: “31 tháng hai”. Thế là
thằng Mỹ nó bác, gã phải mại căn nhà để lo thủ tục
”đầu tiên”. Để lại mò ra Bắc nữa vào Bộ nội vụ
nắn no lại cho đúng niên kỷ, niên lịch: “28 tháng hai”
tây. Tiếp
đến với...không có thật, nếu như ra Bắc cũng nên
gặp nhà văn Nguyễn Công Hoan, vì tôi đã học mót ông, học
như gà đá vách ấy mà qua câu: “Viết là bịa, nhưng phải
dựa trên chuyện có thật, viết thật quá lại không thật.
Vì vậy phải bịa. Nhưng phải bịa như thật”. Nói cho ngay,
tôi đâu cần phải...bịa, vì chuyện có...thật:
với hiện thực: “Gã” là đương kim anh vợ tôi. Đèo
bòng thêm nữa, nói xa nói gần chẳng bằng nói thật, chẳng
phải vì gần chùa gọi Bụt bằng anh, thấy Bụt hiền lành
bế Bụt đi chơi. Tôi không gọi “anh” mà khuân hình tượng,
hình dung từ “gã” vào đây để bài viết có khí phách,
có hồn vía một chút nên tôi nghĩ ông anh vợ tôi chẳng nề
hà gì. Vì đi lính, gã cũng uống bia trái thơm, hút thuốc
lá quân tiếp vụ như bất cứ ai. Ấy là tôi đoán chừng
vậy, chẳng biết có đúng chăng. *** Tất
cả chỉ là ngẫu nhiên, cả năm anh em mới gặp nhau trong dịp
Tết, đang nói chuyện nhà Phật với...Tứ diệu đế. Khi không,
tôi bắt qua chuyện bắn “ba-zô-ca” trong trại cải tạo
với câu thơ “Nhớ
bạn như đang nhớ thuốc lào - Đường gần nhưng cách trở
biết bao”
và đường gần nhưng cách trở biết bao đây là hai
láng với hàng rào kẽm gai. Thế
là gã vào chuyện... Theo
gã kể trại cải tạo vùng Quảng Trị tên là “Trại tàn
binh”, tạm hiểu đây là trại tù kiểu du kích địa phương
“tự biên tự diễn” nên tương đối còn lỏng lẻo. Vì
là trại chuyển tiếp, chưa có nội quy chặt chẽ nên ít khắc
nghiệt hơn những trại cải tạo trong Nam hay ngoài Bắc. Như
mới chỉ ba tháng, thỉnh thoảng có người được tha về,
thường là những công chức nhỏ hay sĩ quan cấp thấp, như
thiếu úy, trung úy chẳng hạn. Một
ngày gã và 5 ông bạn qua một thửa vườn, nhìn thấy lá như
lá đu đủ non, gã biết ngay chóc đây là những cây khoai mì.
Thế là gã nhẩy bổ vào. Nhưng gã không ngờ khi nhổ củ
khoai mì, lá cây ở trên lay động, thằng du kích đứng ở
chòi cao dòm thấy. Vừa lúc lụi đụi buộc ống quần để
nhét mấy củ khoai mì thì gã bị thằng du kích lấy báng súng
đánh ngược lên, gã bật ngửa ra đằng sau. Vẫn không tha,
thằng du kích tiếp tục lấy báng súng dọng vào mặt gã.
Gã lấy tay che mặt mới biết mặt mày đầy máu Và
mới biết mất bu nó nguyên hàm răng cửa. Gã
lóng nhóng tiếp sau này qua đây, gã thửa được nguyên...bộ
răng giả. Ngỡ yên thân, một bữa đứng trước cầu tiêu,
gã ho. Gã...ho thế quái nào mà văng hàm răng vào bồn cầu,
thế là lại phải trồng một hàm răng nữa cho sướng cái
thân. Bị
thằng du kích đánh tận tình, đục gã tới nơi tới chốn.
Nhưng gã không thèm mở miệng van xin thằng oắt tì một câu
vì dẫu chết thì chết, gia dĩ gã là sĩ quan quân lực VNCH
cơ mà. Đến đâu thì đến, đó là “triết lý củ khoai”
của gã. Quần gã tơi bời khói lửa xong, thay vì dẫn về
trại, thằng du kích trói giật khủy tay đưa gã đến trụ
sở xã gần đấy. Vừa
lúc lão xã trưởng đi về. Lão đi qua gã liếc xéo gã một
cái rồi định ngồi xuống làm một bi thuốc lào. Không hiểu
nghĩ sao lão khẽ khọt quay trở lại nhìn gã rõ hơn, dễ hiểu
là gã đang ôm mặt đầy máu nên lão nhìn không ra. Bỗng lão
bật ra hai chữ: -
Ô Ba. Gã
cũng muốn bật ngửa người ra đằng sau như hồi nãy. Vì
“03” là tên hiệu truyền tin của gã. Nhưng gã vẫn nín
khe, vì trại cải tạo kia, trụ sở xã này nằm trên đất
đóng quân một thời một thưở của gã. Bởi nhẽ nào có
biết lão xã trưởng này là ai, là nẫu nằm vùng thì còn...nẫu
hơn nữa. Lão nâng mặt gã lên nhìn. Và búng thêm một câu: -
Đủ má! Trung úy Nghĩa!!! Lúc
này gã mới ve vé mắt nhìn lão xã trưởng. Bố mẹ ơi, hóa
ra lão là thượng sĩ nhất tên “Nàng”, là thường vụ đại
đội trước kia của gã. “Nàng” vội cởi trói cho gã... Từ
đó gã tịnh khẩu bằng cách ăn chay và nói chuyện tứ diệu
đế. Riêng cái khoản chay tịnh, chay chùa với giống giuộc
nào có chữ củ như củ khoai mì, củ khoai lang...và cả...“củ
cải”, tuyệt nhiên không có gã...Tuyệt tự không! Thà ngỏm
củ tỉ sướng hơn! Nhưng
ấy là chuyện sau... *** Làm
như được...cởi trói là an nhiên tự tại lắm với trời
đất hương hoa, người ta cơm rượu, nên gã thảnh thơi vào
nhà đổng đểnh xách ra nguyên một chai Henessy. Là ngày Tết,
cũng vừa xong ngày thất thất lai tuần của ông cụ gã, và
cũng là ông nhạc tôi. Hơ!
Ô túy cương tửu, diễn Nôm “ô” là ghét, ghét say sưa nhưng
lại thích uống rượu. Vì vậy tôi đành ực một cối, nhưng
vẫn còn tỉnh táo, để tam toạng với gã là ngay từ đầu
nhìn thấy mặt, nghe giọng nói, gã không nhận ra lão thượng
sĩ già ư? Nghi quá thể! Gã ngay đơ là đang hồn vía lên mây
vì hồi nãy thằng du kích còn hú họa mang về trại quại
thêm một chập nữa. Đồng thời trong cái lúc đầu óc đang
lùng bùng, mặt mày sưng vếu, máu me tùm lum, mắt híp lại,
nên còn hơi sức đâu nhòm ngó ai với ai nữa. Nghe
được, được thể tôi lùi xùi tiếp cởi trói rồi sao nữa?
Gã nói sao trăng gì! Vì ngay cái lúc hỗn quân hỗn quan ấy, gã
nghe một tràng “ra-phan” khạc đạn 7.5 ly... -
Đủ má thằng nào đánh ôn. -
Tui, vì nó ăn cắp khoai
mì. -
Mả cha mày, mày biết ôn là ai không. -
Tui đâu có hay. -
Đủ má, hồi nhỏ mày đái lên đầu ôn. Mày không hay à. Bấy
giờ gã mới lớ quớ ra thằng du kích là con lão thượng sĩ
già, vì có lần gã cõng nó theo lão đi nhậu và nó đái lên
đầu gã. Vừa lúc nó quỳ mọp xuống, lạy gã như tế sao: -
Con xin lỗi ôn, ôn tha cho con. Sau
đấy, gã dàng dênh là lão thượng già quát tháo thằng con
luộc khoai mì cho gã ăn. Đang ngon trớn “hoài cố nhân”
với “hoài niệm”, khi không gã...“tắc bọp”: -
Đủ... Mới
được nửa chữ nhất tự thiên kim, biết lỡ miệng, gã quề
quà: -
Còn răng lợi đâu mà ăn nữa! Cũng
từ đó, gã ăn khoai mì thấy...ê răng. Nghe chuyện khoai lang,
khoai mì dai nhanh nhách, tôi bèn hỏi gã chuyện Sư đoàn 1,
để nghe bắn nhau đùng đùng đã hơn. Ngỡ
được nghe gã góp nhóp sư đoàn tuyến đầu hỏa tuyến, gã
lại...“cắc cù” nữa: -
Đủ má... Lại
biết mình lỡ miệng nữa, gã khỏa lấp ngay: -
Sui tận mạng! Sau
đó gã à ê, đại thể hôm đó gã và 5 ông bạn tù được
trưởng trại chuyển qua trại khác gần sịt ngay đó nên đi
bộ cho phẻ. Thấy vườn khoai mì là nhào xuống kiếm chút
“bồi dưỡng” nên bị thằng con lão thượng sĩ đánh cho
nhừ tử. Bị giải về trại cũ mới ô hô ai tai ra gã và
5 ông bạn qua trại bên kia để làm giấy tờ ra trại về
Sài Gòn. Nhóm gã được thả nhưng thằng trưởng trại cóc
cho hay vì sợ lộ...tiết lộ bí mật nhà nước. Bố
khỉ! Nghe xong tôi cũng muốn “đủ...với thiếu” ngon ơ
như gã! *** Mãn
khóa Thủ Đức, gã chọn Sư đòan 23 thuộc Vùng 2 chiến thuật.
Đứng bên cạnh, vợ bạn đồng khóa đang vác ba-lô ngược,
ỉ ôi vì chồng bị ra Sư đoàn 1. Gã búng tay một cái tách
làm cú hoán chuyển cho đẹp mắt. Về nhà, gặp khi ông cụ
đang ngó chừng TV qua những trận đánh ở miền Trung. Nghe
vậy ông cụ gã mắng cho một trận tươi tát và chạy tới
ông chú quan to súng ngắn trong Bộ Tổng Tham Mưu chạy thuốc.
Cha đời, nói không ai tin, có 10 ngày phép mới tới ngày thứ
7, gã đã cuốn gói ra Huế để trốn ông cụ. C130
đáp xuống Phú Bài, bước xuống gió thổi mù mịt, nom nhòm
thấy hàng hàng lớp lớp quan tài phủ cờ ba sọc đỏ, gã
lạnh...mình bèn vỗ trán: “Mình ngu thật!”. Nhưng chẳng
ngu gì, 6 tháng sau bạn đồng khóa hy sinh vì tổ quốc ở Tuyên
Đức. Ra
vùng một chiến thuật, trình diện Tiểu đoàn 2, Trung đoàn
54. Một ngày như mọi ngày gã dẫn lính vào nơi gió cát, tới
tận Quảng Trị. Ở đây gã gặp lão thượng sĩ nhất thường
vụ đại đội, người xứ Quảng. Quần nát địa đầu giới
tuyến một thời gian được lệnh kéo lính về Huế, và được
điều động tới căn cứ Nói
xa nói gần chẳng qua nói thật là chuẩn úy mới ra trường,
lão “chỉ huy” gã chứ ông cố nội gã nào...dám chỉ huy
lão. Thảng như một tối gã cho lính đóng chốt ở tọa độ
“A”. Lão cho hay ở đây thế nào cũng từ chết đến bị
thương nên “ra lệnh” rời qua chỗ khác. Nhân bảo như thần
bảo, nửa đêm nghe ì oành, I oành, đất trời rung rinh tóe
lửa. Sáng hôm sau trở lại chốn cũ, gã tóe khói ra là tọa
độ A bị pháo tan bành xí quách. Ngay
cả chuyện lon lá của gã, lão nguých ngoác rằng thêu thùa
ở cổ áo làm khỉ gì, cứ gắn miếng thiếc ở túi áo cho
tiện bề đôi việc. Lỡ gặp ngày trái nắng trở trời, bị
Việt Cộng rượt chạy có cờ thì quẳng bu nó đi cho đỡ
mất công có cái màn lỉnh kỉnh...hòm gỗ cài hoa. Gắn lon
vào túi áo xong, gã bèn...gắn bó với lão cho phải phép cái
đạo tửu đồ. Vì nhà lão quanh quéo gần đấy, gã ký phép
miệng cho lão về thăm nhà. Sợ lão dù mất tiêu thì bỏ bu
nên gã đeo theo, tiện thể gã theo lão vào thôn ấp lỳ một
lam làm một ly đế Kim Long. Vì vậy mới có chuyện gã cõng
thằng con lão và nó nhè đái lên đầu là thế. Là
người hay vọ vậy với địa dư với sử ký, tôi dục dặc
hỏi gã trận địa của gã có hung hăng như tướng Patton đánh
chiến xa với Đức Quốc Xã ở thành phố Tình
trạng ì oạp, ì oạp như ếch gọi mưa chẳng kéo dài bao
lâu. Chuối sau cau trước vì nhẩy dù được bốc vào -
Tôi ở vùng này tôi biết, trước sau tụi mình cũng tiêu. Lão
ngẫm nguột...Rồi nắn no, nho nhã: -
Ông thầy nên tính đi, tam thập lục kế tẩu vi thượng sách. Gã
bèn làm mặt nghiêm và buồn: -
Ông bảo tôi đào ngũ. Ngỡ
lão tầm phào, không ngờ lão quý xuống vừa lạy gã vừa
khóc: -
Ông thầy độc thân. Tôi còn 14 đứa con, ông thầy cho tôi
về... Và
gã không biết làm gì hơn là làm thinh. Hiểu theo nghĩa là...làm
ngơ. Nhưng trước khi lão...về quê, gã cũng không quên đưa
cho lão cái đồng hồ Seiko mặt vuông và dặn dò lão đưa
cho ông cụ bà cụ nếu gã có cái màn lủng củng...hòm gỗ
cài hoa. Thêm
một lần nhân bảo như thần bảo, buổi trưa lão biến, tối
đến địch pháo ì ầm. Gã còn nghe được tăng T-54 âm ì
đâu đây. Gã nói thằng truyền tin gọi máy về trung đoàn
để gã nói chuyện với “Đại bàng” cho mấy khẩu M-72
để bắn chiến xa cho...đã. Gọi
mãi trung đoàn trưởng chỉ thấy im ắng, ắng im đến lạnh
người. Buông
ống liên hợp xuống một cái cốp, thằng truyền tin hô hoán: -
Không xong rồi trung úy. Nhìn
cái bi đông hồi trưa lão thượng sĩ để lại. Thằng truyền
tin rẽ ràng: -
Trung úy không dọt. Em dọt. Không
xong thật! Sáng hôm sau chưa kịp uống cà phê vì lão thượng
sĩ già “dzu-lu”mất
đất rồi. Và trong quân sử của trận địa chiến trên thế
giới, ngay cả những phim về chiến tranh Việt Nam của Hollywood,
từ Coming
Home đến The
Deer Hunter hayGo
Tell the Spartans, v...v...đều không
có “clip” như thế này đây, hiểu theo nghĩa chuyện gã bị
bắt chẳng có “action” khỉ gì: Đại loại vào một buổi
sáng trời quang mây tạnh, gã đang chớp chớp mắt tỉnh dậy,
bỗng thấy trời đất khi không êm ru bà rù. Bỗng dưng có
mấy khẩu AK dí vào người. Mấy thằng chết bầm cũng không
thèm vén môi hỏi cho một câu: “Hàng sống chống chết...Hàng
sống chống chết” mà khơi khơi bắt gã làm tù binh. Khỉ
thật! Nghe gã còng cảnh kể chuyện cứ như...truyện phong
thần. Tôi buồn miệng ngứa răng rằng sao gã không ria tụi
nó một tràng cho đã điếu. Gã trả lời gọn lỏn: -Còn
đạn đâu mà bắn... Khi
không tôi lớ quớ rằng khi đó gã có sợ chăng? Gã thở như
trâu hạ địa nào có thì giờ để sợ nữa, chỉ biết ngớ
ra thôi. Nhưng trong đầu cũng lẫn đẫn: “Đến đâu thì
đến...”. Chung
sự gã được đưa đến...cầu Hiền Lương thật! Gã
bị bắt tháng 11 năm 1974. Và được tống tiễn ra Bắc ngay
tức thì. Về Trở
lại chuyện về Ông
ta trả lời ngon lành: -
Ở...Đà Nẵng. Rồi
ông nói ngon ơ: -
Ngu gì mà ở lại. Gã
định hỏi tiếp sao bây giờ “đại
bàng” lại chui vào đây như...gã, nhưng nghĩ sao lại thôi.
Thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào, tôi hỏi bỡn gã
đi tù ra Bắc, có...ngon ăn chăng? Gã không trả lời. Già hay
đái tật, gã vào trong làm một bãi... Để
bắt đầu bằng vào mảnh đời tù binh của gã. *** Gã
được đưa tới sông Bến Hải, qua cầu Hiền Lương, địa
giới đầu tiên tên Ba Bình, nỗi buồn chạm mặt với ngẫu
sự gặp “hàng quân” Phạm Văn Đinh, nguyên trung tá trung
đoàn trưởng của Sư đoàn 3 dàn chào. Ông chơi nguyên con
quần áo bộ đội, mang quân hàm trung tá hai sao đó, hai gạch.
Ông trấn an trước 500 tù binh trước sau mình cũng...thua. Cứ
phấn đấu học tập, sẽ được như...ông và ngày về chẳng
bao xa. Sau
đấy, làm như Bắc tiến đến nơi không bằng, ông “hàng
binh” trang bị cho hơn 10 anh em tù binh nào là ba-lô, quần
áo “treillis”, có người có cả “poncho” nữa, chỉ thiếu
mũ sắt, “botte de sault”. Gã chắc mẩm chuyến này đi mút
mùa lệ thủy, chẳng có ngày về. Nhưng buồn tình ngẫm ngợi
những bộ quần áo “treillis” từ lỗ nẻ nào chui lên đây?
Gã ớ ra phải chăng quân trang của anh em Sư đoàn 3 bị bắt
làm tù binh đã bỏ xác trên đường ra Bắc? Gã ớ thêm cái
nữa thế này thì chắc...chết quá. Nhưng cũng tặc lưỡi
một cái bép, ra cái điều chín đụn mười trâu, chết cũng
hai tay cắp đít, tới đâu thì tới. Và
tiếp: Ngày về đâu chưa thấy, chỉ thấy...tới Quảng Bình,
Đồng Hới...Bỗng dưng như ăn khoai môn ngứa miệng, tôi hỏi
gã có bị ném đá như trong những sách truyện chăng! Gã trả
lời ngay đơ là “có” và “không”. Nghe lạ vì gì mà “có”
là “không“ với ”không” là “có”? Tôi bèn hỏi cho
ra môn ra khoai, gã râm ran một ngắn hai dài: Khi
gã đi qua một huyện nhỏ có đám con trai, con gái đứng bên
đường (*),
dưới chân là đống sỏi đá chỉ trỏ đám tù binh. Một
đứa con gái khoảng 16 tuổi nói lớn: “Anh ni thiếu úy, anh
nớ trung úy”. Gã hỏi người đi trước: “Sao nó biết cập
bậc của tụi mình”. Chưa kịp nghe trả lời, đám tàn binh
đã bị bị mấy viên đá chọi lộp bộp vào người như gà
mổ mo cau. Nhưng vừa may có một người đàn ông đi tới đuổi
lũ nhóc ấy đi và dẫn đứa con gái về. Đám tù binh ngừng
lại người này hỏi thăm người kia một lát, rồi bị vệ
binh giục đi. Đi được một quãng gặp đứa con gái ngồi
trước hiên nhà. Một tên vệ binh vào nhà. Gã ngỡ nó vào
“làm việc” với người đàn ông hồi nãy vì chuyện ném
đá. Nhưng lát sau ông ta ra. Người đàn ông liếc nhìn đám
tù binh và nói lớn: -
Thứ đó đem bén bỏ cho rồi. Nước đâu mà cho uống. Đợi
tên vệ binh qua quán nước bên kia đường. Người đàn ông
kề tai nói nhỏ với cô con gái. Lát sau cả hai mang hai gầu
đầy nước cho đám tù binh... Bỗng
điện thoại gã “réc réc” như dế kêu, gã đi vào nhà.
Tôi ngồi như Bụt mọc để cái đầu thả rong về sự thể
vừa rồi. Chuyện là tôi đọc được một bài bài viết của
một người làm văn hóa ở Hà Nội. Sau 75 vào Sài Gòn đi
dọc theo Quốc lộ 1 “tham quan” có nhắc tới chuyện ném
đá vào những toa xe lửa chở anh em cải tạo ra Bắc. Ông
ngúc ngắc là chiến tranh đã chấm dứt, sao cũng là người
Việt lại đối xử với nhau như thú vật vậy!? Thêm
một người viết trẻ tại Mỹ viết truyện “giả tưởng”:
Năm 75, quân đội VNCH bắc tiến, thêm một trùng hợp ngẫu
nhiên là quân miền Nam chiếm được...Thanh Hóa (ẩn
dụ cho Huế). Thừa
thắng kéo rốc tới Hà Nội. Miền Bắc được “giải phóng”,
Việt Điện
thoại xong, gã quay quắt trở lại với vùng đất Đồng Hới,
Quảng Bình, gã lõ mắt chỉ thấy hố bom với hố bom, nhà
cửa xiêu vẹo đổ nát nên chẳng có gì để...kể lể. Vào
Nghệ Tĩnh, cuốc bộ qua Đèo Ngang, gã bồi hồi tới bà Huyện
Thanh Quan với nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc, thương nhà
mỏi miệng cái gia gia. Tiện thể gã hoài cố nhân tới lão
thượng sĩ già, chả biết bây giờ lão ở nơi nao? Tôi nghĩ
ông anh vợ này cũng hoài đồng vọng gớm với người muôn
năm cũ hồn ở đâu bây giờ. Nghĩ quấy quá thế thôi... Thế
nhưng đến Nghệ An, qua Quỳnh Lưu, gã xăn xò dân công giáo
nghèo khổ, rách rưới không chữ nghĩa nào tả cho hết! Ếch
vào cua ra, tôi nghếch ngác họ rách thế nào, rách như tổ
đỉa là cùng chứ gì? Gã hâm hâm rằng nói rách rưới thế
thôi chứ có quần áo đâu mà...rách! Vì họ mặc...khố! Nhìn
tù binh mặc quần áo tù họ thèm thuồng thấy rõ. Họ đi
lao động chỉ vì bát cơm vậy mà họ muốn đổi miếng ăn
lấy cái quần đùi của tù. Chẳng lẽ tù đổi quần rồi...đóng
khố sao? Vậy mà sau có anh tù cởi quần đưa cho một anh nông
dân, thay vì đeo khố anh lấy cái bao cát làm quần đùi. Khi
ấy, tù binh và dân được điều động vét đất con kinh Ba
Ra Đô Lương thuộc huyện Nông Cống. Họ đào vét lòng kinh
hình thang đáy 2m x 5m, dài cả mấy cây số tới tận chân
núi tên Kinh. Là
người công giáo thuần thành, đợi gã đào vét xong con kinh
tôi mới líu ríu hỏi người công giáo Quỳnh Lưu bây giờ
còn đức tin không? Gã ngẫm ngợi một hồi lâu. Lâu lắm,
mới cho hay họ còn đức tin. Nhưng không tin tù binh mình có...đường
với kẹo. Gã
trở lại với núi Kinh nói...kinh thật, vì một ông tướng
ôn vật đầy ”tư duy” và “sáng tạo” chỉ ngọn núi
và mắng thằng Tây nó ngu, làm đường gì mà ngoằn nghoèo
như đèo Hải Vân, làm bộ đội ông leo đèo chóng cả mặt.
Với sức người sỏi đá cũng thành cơm, ông bèn cho làm đường
hầm xuyên qua núi. Cứ một thằng tù, một thằng dân với
một cái cuốc chim xẻ sơn phá núi cả tháng mới được một
cái hốc bé con con. Sẵn thuốc nổ TNT của Mỹ Ngụy để
lại, ông cho nổ tung núi thành hang sâu hun hút. Thêm
một lần, đợi gã vác mấy thùng mìn lên núi đâu vào đấy
rồi. Nhân khi gã ngồi bên đường nghỉ mệt. Tôi hỏi khi
nào gã biết mình “tan hàng”. Gã cười cái hậc là nằm
trong rừng, nhìn hoa mai nở còn không biết xuân về hay chưa
nữa là. Chỉ Quốc lộ 1 trước mặt: Cũng ngay chỗ này, gã
dòm thấy mấy thằng nón cối từ Mìn
nổ thêm mấy quả nữa, đúng lúc này, lệch lạc thế nào
chẳng biết, ông tướng ôn vật mang Molotova bốc tù binh ngược
lên Thanh Hóa. Còn lại dân với xe cải tiến chui vào hang chở
đá vụn ra. Đám tù binh xuống núi, nửa đường nghe một
tiếng ầm kinh thiên động địa. Cứ theo gã nhẩm chừng khoảng
hơn 200 dân nằm chết vùi chết giập trong hang...Đoàn tù rời
núi Kinh khá xa, ngẩn ngơ, hụt hẫng nhìn lại thấy đá cát,
bụi đất bốc lên như cụm mây hình đĩa sôi vẫn còn vất
vưởng ngang ngang đầu núi. *** Nghe
gã sắp được trâu rong bò giắt đi Thanh Hóa...Chợt nhớ
gã hạnh ngộ ...cô gái 16 tuổi bên đàng, lại được
cả gầu nước. Tôi tếu táo hỏi gã có mối tình lớn, mối
con nào rơi rớt chăng. Gã giầy thừa dép thiếu rằng sau này
trại cải tạo có lán, có buồng, còn trước 75 ở ngoài Bắc,
họ đang “phấn đấu” đánh cho Mỹ té Ngụy nhào. Nên họ
đâu có quởn “khẩn trương” dựng trại cải tạo cho một
nhúm 500 tù binh đang lêu bêu nay đây mai đó. Vì vậy gặp
rừng xanh um là đốn cây làm nơi tạm trú. Ban ngày trời nóng
cách mấy, nhẩy ùm xuống suối là phẻ. Đói gặp mối chúa,
mối vua là xong tuốt, cứ con gì nhúc nhích là nhai bằng thích,
trừ con...“bù-long”. Nhưng đêm về với cái lạnh cóng da
buốt thịt của rừng núi thì trốn ở đâu cho thóat. Lạnh
teo...“bu-di” thì còn làm ăn gì nữa. Đất
sinh cỏ già sinh tật, cái tật của tôi vướng víu với tầm
chương trích cú nên cũng muốn nặn véo chữ nghĩa với gã
tí ti. Chòm hỏm nhìn chai Heneesy, trộm nghĩ ‘’rượu không
say, say vì chén’’, thế là tôi làm nguyên chén và tôi bốc
một tấc tận giời là ngoài cụm từ ngụy quân, ngụy
quyền có từ thời Gia Long. Theo Đại Nam chính biên liệt
truyện, chúa Nguyễn Phúc Khoát dành hai vùng Thủy Xá phía
đông và Hỏa Xá phía tây núi Bà Nam nằm đâu đó ở miền
Trung giáp Lào cho người Chàm mất nước. Nhà chúa ‘’cải
cách’’,
‘’tạo dựng’’ làng cho người Chàm, mới có từ
cải tạo. Từ làng có láng. Láng đây là tiếng
Chàm, nay thiên hạ sự gọi là lán. Con đường
“tù binh” gã đi từ Quảng Trị, qua Quảng Bình tới Thanh
Hóa, không ngoài...lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng. Minh
Mạng sai Trương Minh Giảng đánh Chân Lạp, đưa Nặc Ông em
lên làm vua. Bắt Nặc Ông anh và cận thần quan lại làm tù
binh, trong đó có Nữ vương Ang Mey. Bầu đoàn thê tử triều
chính và Nữ vương Ang Mey bị đưa về Quảng Bình, cón Nặc
Ông anh và tù binh bị đưa ra Bắc tập trung ở rừng núi Thanh
Hóa cho tuyệt hậu hoạn. Tất
cả đã thuộc về quá khứ, những người miền Bắc đang
“tạo dựng” lại. Nhưng tôi không nói cho gã nghe vì gã
đang là tù nhân của quá khứ, đang đi tìm thời gian đã mất.
Như nhà văn Marcel Proust mặc dù nói đi tìm một thời gian
đã mất, ông chỉ loay hoay tìm kiếm mãi hình ảnh một cái
làng, làng Combray. Ngược lại, gã ngược đoạn đường chiến
binh bằng vào con đường tù binh từ Quảng Trị đến Thanh
Hóa. Nếu như quá khứ là ký ức, theo một nhà văn ở Úc:
“Ðã có vô số người viết về chiến tranh nhìn từ góc
độ lịch sử và ký ức. Từ góc độ lịch sử, người ta
xem chiến tranh đã kết thúc, ở đó, đã biết rõ ai thắng
ai bại. Từ góc độ ký ức, người ta nhìn chiến tranh như
một cái gì đang tiếp diễn, ở thì hiện tại, ở đó, họ
vẫn là chiến sĩ, đứng hẳn trong một chiến tuyến nhất
định”. Vì
thế khi qua Quảng Bình, gã chẳng quên nhớ nước đau lòng
con cuốc cuốc là thế. Lúc
này đây gã đang sửa soạn khăn gói gió đưa về vùng rừng
núi Thanh Hóa. Chạy trời không khỏi nắng, gã sẽ được
đưa đến nơi chốn hoang địa xưa kia những tù binh Chân Lạp
(tức Cao Mên bây giờ) đã có mặt ở đấy. Gã có thể nằm
lại tại đây, ở một tha ma mộ địa nào đó, gã sẽ nát
bàn với Nặc Ông anh cùng thế Chiến quốc, thế Xuân thu,
gặp thời thế thế thời phải thế. Thế nên trong hương
tàn khói lạnh, tôi biết gã chép miệng một cái bép...và
không nói nữa. Nhưng tôi chứng ngộ ra rằng với gã chân
không đến đất, cật chẳng đến giời thì...”thì đến
đâu thì đến”. Tôi vẫn hằng tâm đắc với “triết lý
củ khoai” của gã từ nãy đến giờ. Mặc dù gã không thích...khoai
mì. Đến
đâu thì đến...Chuyện là khi nghe nói gã sắp...đến vùng
đất chó ăn đá gà ăn muối chỉ toàn đá với đá của ông
nhà thơ Hữu Loan ở núi Nga Sơn. Lúc này nhà thơ đang ở đấy,
đang đẩy chiếc xe cải tiến lên núi xuống núi, tay cầm
cái cuốc chim thì sao đây? Tôi đoán chừng gã chẳng còn hơi
sức đâu thương nhà mỏi miệng cái gia gia và chắc như đinh
đóng cột gã sẽ...đục đá như nhà thơ nữa. Thế nhưng
không, gã trẹo trọ là được đưa tới huyện Như Xuân thuộc
đất Thanh giáp biên giới Lào, thay vì đục đá phải lên
rừng đốn cây như lính thú đời xưa với trân thủ lưu đồn “Chém
tre, đẵn gỗ trên ngàn - Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng
ai” rồi gặp lụt
lột vì mưa thui trời thối đất... Nghe
trần ai khoai củ với lụt lội, tôi biết thế nào cũng có
rắn trong hang, lỗ chui ra. Bèn hỏi. Gã ngoằn nghoèo không
phải rắn mà là trăn. Tiếp, gã thao tác về một anh tù đang
chém tre, đẵn gỗ trên ngàn bị trăn quấn muốn...nghẹt thở. Xoay
xỏa lại chuyện đốn cây, chỉ vì chuyện đội đá vá trời
để nới rộng sông Mực làm hồ chứa nước, tù binh phải
đốn cây làm đập để lập...nhà máy thủy điện. Tôi lại
được thể so đo là đập nước làm nhà máy thủy điện
với bê tông cốt sắt dầy cả chục thước lắm khi còn bị
bể. Huống chi mấy mảng gỗ buộc giây thừng lỏng le. Y như
rằng, theo gã đâu đó ít lâu, vùng biên giới Lào bị một
cơn bão rừng kéo dài cả tuần. Cây trên rừng bị đốn,
không chặn được nước mưa. Nước ập xuống làm đập cây
bị vỡ, cây đè đám tù đang làm đập chết khoảng hơn ba
chục người. Như những cận thần quan lại Chân Lạp cả
mấy trăm năm trước, hơn ba chục tù binh, quan cũng như lính
bỏ xác bên sườn núi đìu hiu hoang vắng. Trong một cõi đi
về với 1000 năm trước, 100 năm sau nữa, thôi
thì cũng đành ngậm ngùi “Mấy
kẻ công danh nhàn lẵng đẵng - Mồ hoa cỏ lục thấy ai đâu”. Thế
nên tôi không kể chuyện giả tưởng quân đội VNCH chiếm
Thanh Hóa vừa rồi là vậy. Vì rằng ông anh vợ hiền như
khoai, lành như Bụt của tôi sẽ thở ra nếu vậy thì hơn
ba chục bạn bè tù binh của ông đã không bỏ xác oan uổng
ở nơi chốn này. *** Năm
hết Tết đến, nghe gã quan quả toàn những chuyện tha ma mộ
địa, tôi không thể không lay lắt tới những “cái chết
vô tình” và chẳng thể thiếu những...“cái chết cố tình”
trong cuộc chiến. Thảng như với “cái chết vô tình” qua
một nhà thơ miền Đi
hành quân rượu đế vẫn mang theo Mang
trong đầu những ý nghĩ trong veo Xem
cuộc chiến như tai trời ách nước Ta
bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước Vì
căn phần ngươi xui khiến đó thôi Chiến
tranh này cũng chỉ một trò chơi Với
nhà thơ, cái chết chỉ là trò chơi súng đạn vô tình. Nhưng
với “cái chết cố tình”, tôi lại phải nhờ vả đến
nhà văn ở Úc một lần nữa: “Ở đâu có chiến tranh là
có hiện tượng phi-nhân hoá nhắm vào kẻ thù: hành động
giết kẻ thù không những được miễn trừ đạo đức mà
còn, hơn nữa, được thẩm mỹ hoá thành một cái đẹp. Giết
người là đẹp. Máu chảy là đẹp. Thời 1954-75 ở miền
Bắc, Phạm Tiến Duật mô tả cái đẹp của “Ðường ra
trận mùa này đẹp lắm”. Xuân Diệu mô tả cảm giác sung
sướng: “Ôi, êm ái khi tay cầm vũ khí”. Và có vũ khí với
Tố Hữu: Giết...giết và...giết. Cùng
một vắn hai dài, chuyện đi lính, đi tù được nghe kể rời
rạc, đứt quãng đâu đó ít nhất hai lần. Những tôi không
quan hoài cho mấy, vì cuộc chiến đã qua 40 năm, nếu lấy
cái mốc thời gian của riêng gã từ1974 đến 2014. Vần lay
lắt theo nhà văn ở Úc: “Có thể nói những ai đã từng
trực tiếp tham dự vào chiến tranh sẽ không bao giờ thoát
khỏi cuộc chiến tranh ấy. Những người lính từng “giã
từ vũ khí” gần ba mươi năm trước vẫn tiếp tục sống
trong tâm thế lính tráng cho đến tận bây giờ. Người ta
tiếp tục đánh nhau trong ký ức. Ðiều này phần nào giải
thích tại sao người ta cứ viết về chiến tranh mãi. Kẻ
thắng viết, đã đành; kẻ thua cũng viết, thậm chí, còn
viết nhiều và viết hăng hơn những kẻ chiến thắng nữa.
Tại sao thế nhỉ?”. Với tôi chẳng có câu hỏi: Tại
sao thế nhỉ?. Vì với tôi viết chẳng phải vì cắp nắp
“ký ức”: 9 tuần Quang Trung, 8 tháng Đồng Đế. Mà vì nếu
tôi không viết, tay chân cứ ngứa ngáy khó chịu làm sao ấy,
vậy thôi, thế đó. Thế
nên, từ lúc ngồi xuống, tôi lấy sổ tay ghi ghi chép chép
những gì gã kể lể... Gã
kể...đi đâu có chết chóc đến đấy, vậy mà gã vẫn sống
nhăn răng. Nghe quái! Nếu sống chết có số, chuyện gã có
thể viết thành truyện được. Nhưng chuyện phải có đầu
có đũa, nên tôi trở lại khúc đầu hỏi thêm một phùa nữa
cái ngày gã bị AK dí gã có “rét” thật chăng. Hỏi cho
có thế thôi. Ý đồ tôi muốn hỏi qua một mảnh đời chiến
địa của gã, đánh đấm cầm chừng, câu giờ như Lã Vọng...câu
cá! Ngoài ra đánh nhau như chơi với “Đi
hành quân rượu đế vẫn mang theo”,
như đùa với “Mang
trong đầu những ý nghĩ trong veo” cùng
rượu đế Kim Long
cũng trong veo nốt, chẳng
thấy máu me gì sất cả. *** Gã
cười te tái là rét thì không, nhưng lạnh cẳng thì có. Nhưng
gã chấp nhận số phận...đến đâu thì đến. Vì ngay sau
đấy tụi nón cối đưa gã...đến ven rừng. Trời
chưa tối đất, đám tàn binh đang ngồi xổm chuyện trò thì
xuất hiện một thằng bộ đội răng hô mồm cá ngao. Thằng
này dắt ba sĩ quan thủy quân lục chiến bị trói dây hàng
một đi ngang qua chỗ gã. Nhờ ánh sáng chiều chênh chếch
qua tàn cây, gã nhìn lên thấy ba sĩ quan thủy quân lục chiến
người nào người nấy đều cao lớn. Riêng người đi sau
cùng, mặc dù không thấy rõ mặt, nhưng vóc dáng kềnh càng
như con gấu. Bỗng
không hiểu sao, thằng bộ đội quay ngoắt lại và nhìn gã
chằm bằm. Gã vội lấy dây ba chạc che cái lon ở ngực áo,
lúc này gã mới phục sát đất lão thượng sĩ dậy khôn gã.
Nhưng với con mắt cú vọ, nó cũng nhìn ra lon lá, bắt gã
đứng dậy và trói gã. Kiểu trói này không như thằng du kích
con lão thượng sĩ với hai tay đằng sau lưng còn ngọ nguậy,
còn có đôi chút thỏa mái. Kiểu trói của thằng bộ đội
này khác, nó vặt cánh tay trái gã vắt qua vai, bẻ ngược
cánh tay phải ra sau lưng rồi trói gô lại. Kiểu trói “ngoặt
ngọeo” này vừa đau hai khớp xương bả vai, vừa không cục
cựa, nhúc nhích gì được. Xong,
nó trói gã dính liền với anh thủy quân lục chiến sau cùng. Trong
khi hai người bị trói lại với nhau, anh quay lại nhìn gã
với đôi mắt nửa lặng lẽ, nửa hững hờ. Vì đứng sau
không thấy cấp bậc, nhưng nhờ anh để râu quai nón như Trương
Phi. Gã nhận ra ngay anh là đại úy thuộc Tiểu đoàn 2 Thủy
quân lục chiến. Vì tiểu đoàn anh và gã có cùng số 2 với
nhau, nhưng gã không biết anh. Vì khi cần được cứu viện
hay yểm trợ, tiểu đoàn anh nhập trận đánh ào ào xong là
rút ngay. Trói
xong, thằng bộ đội giắt một chuỗi bốn người đi vào
rừng. Đang len lỏi qua rặng cây, gặp con đường mòn ở khúc
quanh có một hòn đá tảng. Đột nhiên thằng bộ đội quay
lại, gã nghĩ mọi người được nghỉ chân thì... Thì...gã
choáng người vì nhìn thấy tay phải nó lăm lăm cái lưỡi
lê hồi nào không hay. Rồi từng người, từng người một.
Rất thành thạo, tay trái nó nắm tóc kéo xuống như lấy điểm
tựa. Và cũng rất quen thuộc với nhanh và gọn... Thằng
bộ đội bậm miệng, lụi vào bụng mỗi người hai, ba nhát
lưỡi lê. Người
này vừa xong đến người kế tiếp. Chỉ trong bốn, năm giây...Cũng
vẫn động tác quen thuộc, thành thạo, tay nắm tóc ghì xuống,
bậm miệng, tay đâm vào bụng hai, ba nhát rất gọn gàng và
không hơn. Cả hai người đều xụm ngồi xuống, đầu gục
vào giữa hai đầu gối... Giữa cái êm ả của rừng rậm,
gã nghe tiếng xào xạc của lá cây trộn lẫn tiếng rên rỉ
lúc dài, lúc tắc nghẹn. Những người đứng sau trong đó
có gã, chưa kịp phản ứng gì, không ai bảo ai, đồng loạt
gào thét, la hét vang vọng cả một góc rừng ... Cũng
chỉ trong bốn, năm cái chớp mắt đến lượt...anh đại úy
thủy quân lục chiến. Như theo quán tính, anh co chân lên. Gã
không hiểu là anh định đạp thằng bộ đội hay định chạy
nhưng...không còn kịp nữa rồi. Rất gọn và nhanh,...hai,...ba
tiếng “phập”,...“phập”,...ngọt lịm. Gã chỉ kịp nghe
một tiếng...”hự” đau đớn hoà nhập cùng những tiếng
rên rỉ của hai người trước. Gã nghe rõ mồn một tiếng...“cóc”
khi cả thân hình to lớn của anh...lảo đảo rồi ...đổ xuống,
đầu anh đập vào tảng đá. Một
tiếng...“cóc” thật khô. Chỉ
một tiếng...“cóc” khô khan không thôi, nghe rất nhỏ như
đập vào đầu gã. Và
thằng bộ đội tiến tới...gã. Nhưng
lần này có hơi lâu lắc hơn một chút. Vì thân xác anh ngáng
chân nó, nó đạp anh, hay bước qua người anh gã cũng không
hay biết nữa. Mà chỉ biết rằng khi anh vật xuống, sợi
giây thừng nối giữa hai người kéo gã chúi theo. Gã vội
khom người, chùn lại, mười đầu ngón chân bấu vào mặt
đất để khỏi bị chúi thêm. Cũng vì vậy người gã lệch
qua một bên, thành thử thằng bộ đội cũng phải xoay qua
một bên để đối mặt với gã. Nhưng
vì đầu gã hơi cúi xuống, nó không nắm tóc gã nữa. Vì
gã khom xuống, cái đầu che đi một phần cái bụng. Lại nữa,
vì người gã kheo khư, còm nòm nên lần này, thằng bộ đội
cầm lưởi lê phải đâm ngược lên...mặt gã. Theo phản xạ,
gã định...nhắm mắt lại. Nhưng chưa kịp nhắm mắt, thi...thì...nhìn
thấy bàn tay ai đó...giữ cánh tay nó lại. Ai đó...giằng
lấy cái lưỡi lê. Gã nghe tiếng gằn giọng: -
Tôi cảnh cáo đồng chí vi phạm nội quy. Đợi về, tôi kiểm
thảo đồng chí. Gã
nói với tôi sau này gã mới biết người cứu gã là một
chính trị viên, người cũng còm nòm, kheo khư như gã. Hay là...Hay
là...Tôi vội vàng xua đuổi cái ý nghĩ ấy đi, không cho len
lỏi vào đầu. Thay vào đó, bằng vào với mỗi người một
nết, đến chết cũng không chừa, tôi óc ách hỏi gã trong
lúc thập tử nhất sinh ấy thì gã...Không cho hỏi hết câu,
gã bàu bạu là trong hỗn mang không nhớ rõ lắm. Rồi ngần
ngừ và tiếp trong lúc thập tử nhất sinh ấy mỗi người
mỗi phản ứng khác nhau. Với phản ứng giữa ngã với ngã
tâm linh...Và gã cười ngượng ngập: Trong cõi u u minh minh,
u mê ám chướng... Gã
thấy gã rơi xuống...địa ngục. Cùng lúc, trong một sát na,
gã lại bò lên...niết bàn. *** Vừa
lúc cạn xong chai Henessy...Trong cái đầu củ chuối tôi cứ
quanh quéo niết bàn với địa ngục, quớ quãng với...ngã
này...ngã kia. Hôm nay là ngày hóa vàng, tôi lễnh đễnh bước
tới bàn thờ thắp nén nhang khấn ông cụ. Đập vào mắt
tôi ở bức tường bên kia treo tấm ảnh chụp gã đội mũ
sắt ngập ngụa mờ nhân ảnh. Có thể vì bức ảnh đã hơn
40 năm nên ố vàng, khuôn mặt gã đeo kính trắng nhạt nhòa
mờ nhân ảo trong một cõi đi về. Ngước mắt nhìn bức chân
dung cụ còn mới, tôi chẳng thấy hình bóng cụ đâu. Mà
chỉ thấy gã nấp sau bát nhang nhìn con gà khỏa thân...
Thạch
trúc gia trang
Mồng
ba tết Giáp Ngọ 2014 Ngộ
Không Phí Ngọc Hùng (*)
Đoạn này người viết vay mượn trong truyện “Tết trong trại
cải tạo” của tác giả Bồ Tùng Ma. Xin cảm tạ tác giả...
g
|
|