Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Dẫn
nhập:
Tới cái tuổi hòang hôn, hết khi trưa phơi sách khi chiều tưới cây, đến mon men làm quen với cái thú chơi đồ cổ. Để rồi gặp một cụ bạn già thuộc dạng thâm căn cố đế qua những canh bàn mạt chược. Nhà cụ có cái điếu bát hai lần di cư theo cụ, năm 54 và 75, lâu lâu cụ bạn già lụi đụi ra nhà để xe quơ cái điếu cày làm một bi, hun khói bay mịt mùng. Còn cái điếu bát cụ để sau nải chuối nhìn con gà khỏa thân...Thấy cái điếu bát đầy ngập nhang khói hương đèn. Bèn nghĩ dại "của đi tìm người" chăng nên há họng gạ mua, nhưng cụ lắc đầu quầy quậy không bán. Một buổi cờ đang tàn cuộc không còn nước, cụ cháy túi bèn cấn cái điếu bát cho người viết. Rồi cụ đi vào cõi tĩnh mịch, thỉnh thoảng nhìn cái điếu bát lại nhớ cụ bạn già. Khi không lại lây lất qua cái điếu cày với bạn bè xưa cũ một thời nằm chết dí trong trại cải tạo và lấy nó làm cái thú đi mây về gió. Thế nên người viết có bài viết này cùng giấc mơ hoang trong một ngày nhạt nắng... *** Từ sáng đến giờ, lão xác như ve loay hoay với ba mớ húng quế, ngò gai. Bàn về cái giỗ...sang năm, tiện nội lão được thể là gà luộc mà không có lá chanh sắt nhỏ thì chán mớ đời. Thế nên lão nghĩ quẩn ắt hẳn là phải đào một cái hố trồng cây chanh cho mùa tới. Mà dạo này trái gió trở trời hay sao ấy, tiện nội lão trước rằm cũng ừ, mười tư cũng gật, dạo này cứ hóng hớt là đất sinh cỏ già sinh tật, rằng nay lão sinh tật tối tối ngủ ngáy "..ro..ro..ro.." như rít thuốc lào ấy. Ấy vậy mà bén hơi nhau như khói bếp bén nóc rạ cũng hơn nửa đời người, con đàn cháu đống cả đấy. Để rồi từ nẫy đế giờ, lão chẳng làm được việc gì ra hồn, vì cứ bổ nháo chuyện này sọ qua chuyện kia. Nhưng nhắc đến hai thằng cháu, lão mới nguôi ngoai được đôi chút. Như mới tối hôm qua đây, chúng kể cho lão chuyện cổ tích Na Uy học được ở trường mà lão ngẫm cũng hay hay, y hệt chuyện Từ Thức về trần của người mình: Chuyện về một lão tiều phu lên rừng đốn củi. Sau giấc ngủ trưa, tỉnh dậy thấy mình râu tóc xồm xòam, quần áo rách tả tơi. Nghĩ mãi không biết chuyện gì sẩy ra, cuối cùng đành lọm khọm tìm đường lò dò về nhà thì thấy vườn không nhà trống, vợ con đã trôi sông lạc chợ tự thuở nào. Làng mạc đầu trên xóm dưới tiêu điều xáx xơ, và không ai nhận ra lão tiều phu nữa. Sau có người cháu nhìn thấy cái rìu cũ kỹ giống rìu nhà từ hồi nảo hồi nào nên moi móc trí nhớ...Và mãi mới nhớ ra rằng cách đây cả gần trăm năm, gia cang có cụ cố của dòng họ, một hôm lên rừng chặt cây đốn củi và không thấy trở về nữa. Bất giác lão thấy thương cho hai thằng cháu suốt ngày ru rú trong phòng với TV, điện thọai. Rồi thầm nhủ, lúc nào rảnh rỗi, lão sẽ kể chuyện ngày còn bé tí lão nghịch tinh bắt mấy con cóc cụ. Nhét vào mồm chúng ít thuốc lào, xong khâu lại, thả ra vườn. Lũ cóc ngấm thuốc lào lờ đờ, thở ra nghe lịt xịt, nhảy lung tung như say rượu, vừa nhẩy vừa khùng khục inh lên như người hen. Tiện thể, bắt qua chuyện lão xách cái xe điếu cắm vào cái điếu bát của ông cố chúng làm trộm một hơi. Để rồi say như điếu đổ, say như cóc cụ và bật ra đằng sau ngã cái như trời giáng. Vì vậy cùng một nhớ hai quên với khi xưa nhà gọi lão là...thằng xe điếu chăng? Được thể lão ê a với chúng: "Xưa, các cụ ta cả mấy chục đời vun sới với nghề trồng thuốc lào, cơ ngơi phủ trên huyện dưới, ai ai chẳng lạ gì với thuốc lào Vĩnh Bảo, huyện Tiên Lãng...". Lão đang chống gậy trúc khua cua trở về làng xưa chốn cũ...Đến khúc say thuốc ngã cái một cái bịch. Thì số ruồi, lão hụt cẳng dẵm vào cái hố cây chanh đang đào và ngã bổ chửng ra đằng sau thật. Đầu đập vào...vũng nước mưa nghe cái "tõm", như tiếng sung rụng ngòai bờ ao nhà và không biết trời trăng mây nước gì nữa. Đang lửng lơ gần đất xa trời, lão nhớ tay còn cầm cái xẻng... *** Và lão quay quả trở về quá vãng trong giấc mơ hoang: "Tôi" chúa ghét những người loáy nhoáy viết ký sự, ký truyện...Vì tôi không dồ đến độ như vậy, nói cho ngay "cái tôi" đáng ghét đây chỉ là cái gạch nối của một dòng họ. Nhưng khổ nỗi, tôi không phải là người dương thế, chẳng là ma. Luận về ma chay chẳng thể thiếu vắng...điếu tang, điếu văn. Những thứ điếu tha ma mộ địa ấy chẳng phải là "điếu tôi". Điếu hiểu theo các cụ ta xưa là..."cầm lấy". Mà theo nho gia cùng điếu cổ hoài kim thì cụ bà Hô Xuân Hương (*) đã lộng ngôn, lộng chữ: Lưng tròn vành vạch đít bảnh bao - Mân mân mó mó đút tay vào - Thủy hỏa tương giao sôi sình sịch - Âm dương nhị khí, sướng làm sao. Ấy đấy, có tự trào hay khẩu khí này nọ cũng vậy thôi, điếu tôi cứ tuyệch tọac trên răng dưới hột thị gồm cái điếu bát, cái xe điếu và cái bát điếu. Còn cái điếu cày, bóc ngắn cắn dài thì thuộc chi, tộc khác nhưng cũng là ..."Điếu tôi". Nhưng ấy là chuyện sau. Chẳng dấu gì, thực tình tôi không hiểu được là mình thuộc giới tính nào, chỉ biết rằng điếu tôi là cái điếu bát nõ vàng se bạc được làm bằng sành, với dăm hoa văn ngư, tiều, canh, độc. Nếu không thì để trơn, trắng như ếch lột cũng chẳng sao. Nhưng được cái dáng tôi hình tròn thắt cỏ bồng với lưng tròn vành vạch đít bảnh bao, giống như mấy bà mệnh phụ phu nhân trong tranh vẽ thời Phục Hưng, cái bụng thỗn thện, cái mông to chành bành như đít trâu, có lẽ vì vậy tôi thuộc giống cái chăng? Chẳng như ông tây bà đầm lạng quạng "lơ với la", các cụ ta xưa cùng tình tự dân tộc, gì cứ nhúc nhích thì cho là...con: Như con gà, con qué hay...con cu, con chim. Ngồi đồng một đống chẳng nói chẳng rằng như gái ngồi phải cọc thì các cụ phang cho là...cái: Như cái điếu bát, cái điếu cày, hoặc... cái hĩm, cái bướm. Trở về với điếu tôi, vô duyên gì đâu ngay giữa mặt nhu nhú là cái nõ, thâm sì như cái tĩn gà. Bên cạnh tôi, lề mề là cái thằng phải gió xe điếu, cái giống gì mà gầy đuỗn đuồn đuột như cái thân đũa, đầu xám ngóet, nhưng được cái mỗi lần mân mân mó mó đút tay vào là nước nôi tôi âm dương nhị khí sướng làm sao, được thể tôi lại gào thét như sấm chớp mây mưa. Áo quần tôi bên Tây thì có bên Tàu thì không, vẽ vời thì giống như cái váy, được tiện bằng gỗ, hình ống. Nhưng chỉ vì cái điếu bát to bằng...cái bát nên tự nó đã có tên gọi rồi. Vẫn chưa xong với những cái tền, vì Hán tự "điếu" còn có nghĩa là "tự", là chữ. Thế nên các cụ bí chữ, nên gọi tên chữ là...cái bát điếu !!! Sau đấy các cụ điếu động quan điếu hạ thủy rồi ư hử trúc xinh trúc đứng bờ ao, em xinh em hút thuốc lào vẫn xinh. Cứ theo ca dao tân thời với ông đồ nát chữ Ngộ Không thì ắt hẳn tôi thuộc giống cái chăng? Nhưng chỉ vì trúc xinh trúc đứng bờ ao mà các cụ ta chặt trúc để câu cá. Chữ Nôm "câu" thì Hán tự lại là "điếu". "Câu cá" là "điếu ngư". Vì vậy mới có "điếu đồ" là người đi câu, "điếu thuyền" là chiếc thuyền câu. Từ đó cụ Nguyễn Khuyến có bài "Thu điếu" ao thu lạnh lẽo nước trong veo, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Và cũng theo ông đồ bát nháo Ngộ không...ngộ chữ thì chỉ vì ngồi không tựa gối ôm cần câu chẳng được nên... Nên cụ Tam Nguyên bẻ cái cần câu trúc làm...cái xe điếu. Không thua bà chúa thơ Nôm, vua Lê Thánh Tông trong Quốc âm thi ca tập lục có bài vịnh Cái xe điếu rất hữu tình: Từ
khi thiếp tới cửa chàng
Từ đó có điếu đóm. Và đóm đây làm bằng tre, nứa để mồi lửa hút điếu bát. Còn mồi lửa hút điếu cày lại thuộc "ký" khác. Nhưng ấy là ở hồi sau, thời vua Quang Trung lận. Nằm đuỗn trước mặt các cụ, điếu tôi tênh hênh tôi để cái sự đời tôi ra. Tối lửa tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, các cụ lên cơn tòm tem, mò ra cái sập gụ bế điếu tôi ra và đét đồn lên. Tay các cụ vân vê bi thuốc nhỏ bằng con nhặng xanh rồi ấn với nhét vào cái nõ xám ngót, thâm sì. Châm cái đóm tre chẻ mỏng tang và cái thằng phải gió nằm bên cạnh là thằng xe điếu chỉ đợi có vậy. Nó nhỏm ngay dậy lom khom đút vào cái nõ, tiếp đến là thủy hỏa tương giao sôi sình sịch.Trong khi điếu tôi rên la, các cụ mắt lim rim, miệng thở ra khói hết sức là thống khóai. Ấy vậy mà ngọn lửa lòng vừa tắt điếu tôi tê rần, bải hỏai rã rời. Lại có lúc điếu tôi thở không ra, cứ tấm tức nghe buồn như giọng thút thít của người con gái trong đêm trao duyên gửi phận. Lúc vui vẻ như anh gà trống gân cổ gáy "ó, ó, ooo..o..o" cho mối tình đầu. Lắm bận khịt khịt chẳng khác mụ nạ dòng vén váy rít qua kẽ răng... *** Đầu trỏ xuống cuống trở lên gia tộc điếu tôi được các cụ kể lại khởi nguyên từ thời quan Nội Hầu Phạm Ngũ Lão. Phạm "lão" tướng quân cầm quân "qua" chinh phạt một mảnh đất khỉ ho cò gáy không biết gọi tên Nôm là gì. Nên được vua Trần Anh Tôn thưởng công lấy tên tướng quân đặt tên cho xứ ấy là...Lão Qua (sau là Ai Lao). Quân sĩ xa nhà, đêm khuya lạnh lẽo nên hút thuốc của người bản địa cho ấm, để giải khuây nỗi sầu viền xứ. Từ tên Ai Lao được dân gian kêu là nước Lào để có thuốc lào. Vì sơn lam chướng khí nên bị bệnh hàn, họ xem thứ lá trên như..."thuốc" đắng dã tật nên mới có cái tên...hay hay ấy. Hay đâu chưa thấy chỉ thấy...một thằng hút bốn thằng say: Thuốc
lào chồng hút vợ say
Dòng họ điếu tôi có mặt trong cõi nhân gian vào khỏang thời gian này. Vì it lâu sau Phạm tướng quân kết duyên với con gái nuôi của đức Trần Hưng Đạo và sinh ra công nương Tĩnh Huệ, sau gá nghĩa với ông đồ Vũ Quỳnh, người Hải Dương. Cụ bà tằng tổ điếu tôi, tức công nương Tĩnh Huệ về làm dâu họ nhà họ Vũ từ ngày ấy. Và sinh ra cụ cố điếu tôi. Cụ cố điếu tôi hầu hạ điếu đóm ở nhà ông đồ họ Vũ từ lúc ông còn để chỏm. Sau này con đường khoa cử và gia cang ông đồ Vũ càng ngày càng đi xuống. Ông đồ trúng tuyển tam trường được gọi là sinh đồ, tính thi hội để được gọi là hương cống. Nhưng ông không có cái duyên với cái nghiệp bút nghiên, nên rút cuộc vẫn là ông đồ bát nháo. Thế nên ông sinh bất đắc chí không thiết gì thi cử nữa, tiến vi quan đạt vi sư, nhưng ông cũng chẳng chịu an phận thủ thường với nghề dậy học, và cũng chẳng màng đến mài mực ra mà kiếm gạo, ông cứ nằm co với mo cơm tấm ấm ổ rơm là đủ. Đến tuổi tứ thập nhi bất hoặc, tưởng ông không còn gì huyễn hoặc nữa, bỗng dưng ông lừng lững phong kiếm quy điền, đóng cửa tạ khách. Nhân một hôm, cụ cố điếu tôi theo ông đồ qua làng gần đấy để điếu đóm cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Gặp lúc cụ Trạng nói bâng quơ với người khách mới bước vào: Chép miệng đánh tan quân kiến gió - Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Cụ cố điếu tôi nhòm kỹ, hóa ra đó là Nguyễn Kim, nho phong sĩ khí, dáng dấp an nhiên, ở trấn Kinh Bắc ai cũng biết tiếng. Về nhà, cụ cố điếu tôi mạo muội luận về thời thế tạo anh hùng với ông đồ rằng: Sao không theo Nguyễn Kim đang chiêu hiền đãi sĩ, mộ quân đánh nhà Mạc, hiện lẩn quẩn ở bên Lão Qua mà tìm kiếm con cháu nhà Lê về phò làm vua. Kẻ sĩ bách vi, một công đôi việc, mang ít cây thuốc của người Lào về để con cháu lập cơ ngơi canh tác. Nhất cử lưỡng tiện xin vua Lê khai khẩn vùng đất Cổ Am của nhà Mạc vì chiến sự nên đã bị bỏ hoang từ lâu. Với thiên thời địa lợi đại cuộc cũng xong, thế là cụ cố tôi lại tay xách nách mang theo dòng họ Vũ lập nghiệp ở vùng Cổ Am, dựng đất Tiên Lãng, Vĩnh Bảo với nghề trồng thuốc lào. Nghiệp tổ của điếu tôi khởi đi từ đời Lê là thế đó, vua Lê Thánh Tông ban thưởng cho dòng họ Vũ qua bài vịnh Cái điếu bát với Động sóng tuôn mây khi chán miệng - Nghiêng trời lệch đất thuở buông tay. Đến đời Nguyễn cũng thế gia vọng tộc như ai , điếu tôi được vua Tự Đức phong tước hầu: "Thủy hỏa hầu". *** Còn cái điếu cày thì chuyện như thế này đây: Từ năm Canh Tý niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 đời vua Lê Thần Tông nhằm niên hiệu Thuận Trị thứ 16. Dân gian ta bắt đầu trồng cây thuốc lào, đàn bà con gái tranh nhau hút thuốc lào, đến nỗi có câu: Ba ngày có thể không ăn - Hút thì không thể cấm ngăn một giờ. Năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Trị thứ 3 đời vua Lê Huyền Tông, triều đình đã hai lần xuống lịnh chỉ nghiêm cấm, lùng bắt những người trồng thuốc, bán thuốc, và lén hút thuốc ở trên núi, nhưng không dứt tuyệt được vì họ ẩn nấp tận trong hang động. Túng thì phải tính, thế là dân gian ta khoét cột tre làm ống điếu tức điếu cày tôi và chôn điếu sành xuống đất. Lâu dần lịnh cấm bãi bỏ. Sau thì việc hút thuốc lào đã thành thói thông thường. Ấy là sử liệt truyện của điếu cày tôi theo sách vở tam sao thất bản từ ông Trương Vĩnh Ký nên các cụ ta mới có câu tận tín thư bất như vô thư. Như vào thời nhà Lê xuất hiện bài Thơ con cóc: Con
cóc trong hang
Con cóc nhẩy đi đâu qua thời hậu hiện đại, tân hình thức lý giải là con cóc trong hang. Nhẩy ra không biết làm gì. Rồi ngồi đó trong trạng thái lơ mơ bất định. Và nhẩy đi. Ấy là con cóc đi tìm điếu tôi đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên là thế đó, để có câu ...cóc say thuốc lào. Lại theo ông đồ chữ nghĩa như trấu chát Ngộ Không với câu "Cáo chết bà năm..." được hóa thân là "Cóc chết ba năm...quay đầu về núi ". Núi đây hiểu là ở đấy có hang động. Không ngoài nhớ ai như nhớ thuốc lào với tương tư thảo. Hậu sự bài thơ không ngoài ẩn dụ...cóc say thuốc lào vậy thôi. Vì với gia phả trích ngang của dòng họ điếu tôi, mò mẫm chui vào gốc tre làng cùng chữ nghĩa dân gian để có Những nơi chiếu cói, võng đay - Điếu sàng, xe điếu chàng say là đà....Nói xa chẳng qua nói gần, chuyện họ hàng hang hốc điếu tôi trước sau ở..."cái võng" mà ra. Số là cụ cố điếu tôi với con đàn cháu đống còn đi xa hơn nữa, vào tới tận Quảng Bình thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Vì những rối rắm với cái xe điếu, cái...mồi lửa. Bằng vào tình cờ, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà lần thứ ba đánh đuổi quân Thanh. Ngài hành quân thần tốc, cứ ba người thay phiên nhau cáng võng, thổi cơm bằng với cái đòn tre bánh tẻ. Tre bánh tẻ chỉ chung một lọai tre thân to, ruột rỗng, không già cứng, không non mềm. Nhìn thấy cái đòn võng, có chú hỏa đầu quân trong xuất lính nghĩ đến thay cái điếu bát bằng cái điếu tre. Sau này người nhà nông thấy tiện lợi, mang theo trong công việc đồng áng, nên điếu tôi một đầu được vạt nhọn cắm xuống bờ đất. Sau khi bác lực điền cày bừa đến lúc nghỉ nghơi, ngồi dựa gốc cây, kéo điếu tôi lên châm lửa, đốt thuốc, làm một cữ, rít một hơi long sòng sọc và nhả khói... Cày bừa rồi rít một hơi. Nên bác lực điền gọi là cái điếu cày Điếu tôi trộm nghĩ là cũng là cày bừa! Sao không gọi...bừa đi là cái điếu bừa? Trở lại với chú hỏa đầu quân, chú chọn khúc tre bánh tẻ to bằng cổ tay và dài bằng khuỷu tay đến ngón tay trỏ. Chú cắt ống tre ngay ở đầu có đốt kín mít để đựng nước. Ngang thân ống tre khỏang nửa bàn tay từ đốt tre, chú khóet một cái lỗ gắn cái nõ như cái phễu. Phễu tỏe ngang như hình cái guốc, gọi là...guốc điếu. Khi hút, khói thuốc đi qua cử ải này, kêu ròn hay không ở chỗ khéo tay gọt cắt cái nõ hay guốc điếu vừa kể trên. Như có tương ngộ của trời đất, lính cứ hai người cáng, người còn lại mồi lửa lúi húi nấu cơm bằng con cúi rơm. Đó là thân cây lúa khi đã gặt đập hết thóc và tết lại như búi tóc, to bằng bắp tay dùng làm mồi giữ lửa, lửa âm ỉ cháy, khi cần thì thổi phù phù vào mồi giữ lửa và lửa sẽ bốc lên để...hút thuốc. Từ đó điếu cày tôi gắn liền với củi lửa là...con cúi rơm. Người Bắc vào Nam theo phong trào mộ phu đồn điền cao su, lúc ấy diêm, quẹt còn hiếm. Không lẽ mang con cúi rơm ở quê nhà đi theo, nên họ quơ nắm bùi nhùi, hai hòn "đá kỳ", cần tắm táp thì kỳ cọ. Cần hút thuốc cà hai hòn đá vào nhau cọc cạch cho...tóe khói, tóe lửa vào nắm bùi nhùi. Vì thế đầu thế kỷ 20 người Nam gọi người nước Bắc Kỳ ta với cái tên...cọc cạch lửa. *** Theo những bước thăng trầm của vận nước nổi trôi, với lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng...Năm 54, dòng họ thuốc lào tôi tay gánh tay gồng dắt díu nhau vào Nam đất ấm tình nồng. Rồi trải rộng ở Cái Sắn hoang sơ vắng ngắt, chiều chiều nghe tiếng cu ngói kêu lại...nhớ nhà trong điếu thuốc, khói huyền bay lên cây với thuốc lào 3 số 8 ở tiệm Vĩnh Phát vùng Ngã Ba Ông Tạ. Mà đã nhớ thì chẳng thể quên cái thời buổi Bắc kỳ 9 nút với "ri cư" có câu dân gian Bắc kỳ ăn cá rô cây - Aên nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ. Thôi thì hãy trở về với kẻ sĩ tay chưa cầm lựu đạn mà là cái điếu cày trong một thời thái bình thịnh trị Ngẩng đầu đưa khói vào mây - Nghênh ngang hiền triết điếu cày thăng thiên. Thế nhưng phải đợi đến cái năm thế sự thăng trầm quân mạc vấn, ấy là năm 75, thằng em điếu cày tôi mới hồ hỡi có mặt và phấn khởi theo đôi rép râu mũ tai bèo. Thêm một lần nữa chi điếu cày của dòng họ tôi lại vất vả ngược xuôi, bên kia là núi bên này là sông, từ trại cải tạo ở biên giới Việt Miên, đến tận dẫy núi Hòang Liên Sơn, heo hắt với gió thổi muông chiều. Và rồi đến những ngày cận Tết mỗi năm hoa đào nở, lại nhớ cánh mai vàng của miền Nam mưa nắng hai mùa và ngơ ngáo nhìn nhau: Điếu cày càng rít càng kêu - Mặt người dại khói càng vêu mặt người. Để Thanh Tâm Tuyền vay mượn từ câu ca dao nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên, để có nhăm câu thơ nhớ đời, nhớ bạn qua hàng rào kẽm gai của hai láng. Ông đã trầm ngâm trong một chiều vắng: Nhớ
bạn như đang nhớ thuốc lào
Ngược về cái buổi tang thương ngẫu lục trên...Thằng em điếu cày tôi cùng hai kẻ sĩ giã từ trại cải tạo về lại thành phố. Thời buổi ấy, trấn ở đầu đường cuối hẻm, hàng quán không có mái che, dăm cái ghế gồ chân thấp, dưới đất có cái bếp lò, trên bàn dăm bịch ny lông đựng trà và không thể thiếu thuốc lào 3 số 1 xuất xứ từ đường Lý Thái Tổ. Hai kẻ sĩ sinh bất phùng thời nơi hè phố, hút một điếu thuốc lào, đầu óc lơ mơ trôi dạt về những năm tháng tù tội: Này đây trà đậm chén mời - Long Giao còn thú tuyệt vời nào hơn mới cảm thấy nỗi nhớ Và kẻ sĩ ngâm nga cùng những ngày tháng qua mau: Ngồi
chơi hút điếu thuốc lào
Cùng nỗi say mỗi buổi sáng. Kẻ sĩ bên này bàn gỗ mộc thấp tè hỏi kẻ sĩ bên kia bàn: Đằng ấy còn chăng nét "tiếu ngạo". Rồi nhét thêm bi thuốc, châm que diêm: Bạn
tù ơi lửa châm rồi
Bạn tù cố cựu, tức kẻ sĩ bên kia bàn trả lời: Tớ đây vẫn giữ vẻ "tiêu dao".Xong, bạn tù bắn một phát, ngã lăn đùng ra, mặc kệ trời đất xoay mòng mòng: Kể
chi vợ dại con thơ
Sá gì một cuộc bể dâu, sau đấy là mảnh đời lưu vong...Thôi thì hãy nghe một H.O. kể lể: "...Làm sao tôi quên được những ngày ở trong tù bắn "ba-zô-ca" mong "hút thuốc lào nâng cao sĩ diện". Hoặc "thơm mồm, bổ phổi, diệt trùng lao!" vừa mới xong thì sang đến đất Thái với diện H.O. Trưa mùa hè nắng gắt, giữa đám người nắm, ngồi, ngổn ngang trong trạm tạm trú, nhớ điếu, thèm hút, tôi mới cảm thấy cái cảnh chia ly giữa tôi và cái điếu cày nó thảm thiết, ray rứt và buồn thảm như thế nào. Bỗng tôi..."nghe" mùi thuốc quen thuộc và thóang nhìn thấy một làn khói trắng... Đang cơn ghiền, tôi mò tới làm quen, bắn một bi và khai pháo cả một cối thuốc và một lần ly hương trong đời, lại thêm một lần u hòai Người bỏ xứ ngồi ôm vừng trán rộng - Nhớ nhà trong điếu thuốc lào say. Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiều gió sương nắng nôi của quê hương quyện thành nên tôi ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì cảm nhận, không có cái say nào bằng say quê hương. Chỉ có một chút khói quê hương sao mà say, dù rằng mới xa quê nhà mới có mấy ngày, lại nhớ đến câu thơ Sớm mai đánh bệt trước thềm - Đứ đừ phun khói thuốc lên tận trời và ngẩng đầu về phương tây, phương bắc, chẳng biết bao giờ trở lại...". Nói cho ngay, thân thế điếu tôi chẳng danh gia vọng tộc gì cho mấy. Thế nhưng văn học nước nhà tự cổ chí kim không thứ gì nhiều chữ nghĩa về điếu tôi đến như vậy, từ ca dao, thơ phú, giai thoại. Đến như ông phỗng đá, thằng bù nhìn, cái chiếu, cái chổi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Kể cả hành trần nước béo với...phở. *** Kể từ thời cụ cố tôi với ông đồ xưa kia chỉ có danh hão, đến thời ông nội điếu tôi làm như được thời. Thuốc lào Vĩnh Bảo của ông nội tôi chỉ thua thuốc lào Cả Nghị ở dốc Hàng Gà đầu phố Huế, nhưng trội hẳn thuốc lào Ông Tề vùng Bến Tre. Thảng như ông H.O. trên đã cảm khái: Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiều gió sương nắng nôi của đất nước quyện thành ... thì cảm nhận, không có cái say nào bằng say quê hương?. Dậu đổ bìm leo để bén rễ với nghề nhà thì cây thuốc lá mầu xanh rêu, bẻ lá dưới gốc để nguyên cả tầu, xếp thành bó móc trên sào ngang phơi khô. Chừng độ đủ nắng, lúc lá đã rũ mề, cuốn lá tròn, thái từng sợi nhỏ, những sợi ấy trải trên nong phơi và ủ. Lúc đầu lá còn tươi, mùi ngai ngái, chưa tẩm thuốc, được gọi là thuốc mộc. Nên phải đấu thuốc, đấu là trộn hai hoặc ba thứ thuốc với nhau, khi đấu thuốc phải phun một lớp nước đường lõang rồi phơi nắng. Kịp khi người Pháp có mặt ở nước ta, ông nội tôi học được một lọai thuốc mới mầu vàng đen, đằm và ngon hơn, mùi thơm và khói bay vào tới tận...kinh đô Huế và vua Khải Định...nghe được. Nhân vua Khải Định ra Hải Phòng đi Marseille dự đấu xảo. Vì đấu xảo có gian hàng thuốc lào Vĩnh Bảo nên vua ghé quận đường ban thưởng ông nội điếu tôi hàm bát phẩm văn giai vì có công phát huy nghề trồng thuốc. Ông nội tôi khăn đống áo dài đi hầu vua, theo sau là hai chú tá điền khiêng trống. Đột nhiên quai trống bện bằng giây thừng bị đứt, đổ lăn xuống ruộng. Vì vừa to vừa nặng, nên không cách nào mang lên nổi. Bỗng một trong hai chú tá điền chẳng hiểu nghĩ sao ba chân bốn cẳng chạy sang làng bên cạnh. Lát sau, chú ấy hí hửng mang về được: Một cái võng. Vua Khải Định nghe chuyện, thấy chú tá điền vừa có công khiêng trống, vừa lanh trí nên ban cho chú ấy phẩm cửu hàm. Chú ấy nghe vua phán xong, mừng quá thể, bèn lăn đùng ra về chầu ông bà ông vải ngay tại sân huyện. Chú ấy lại chết vào giờ trùng, nên vua cấp thời phong cho chú làm Thành hòang làng điếu tôi. Dân làng tôi cung kính gọi là: Ông Cửu Võng. Nhưng dân làng bên cạnh vì trâu buộc ghét trâu ăn, họ lại bị mất võng nên bôi bác kêu ngài Thành hòang làng điếu tôi là: Thằng ăn trộm. Chuyện ông nội điếu tôi mặc dù được thẻ bài ngà vua ban, nhưng không lấy đó làm thỏa thuê gì cho mấy, chẳng phải vì dân làng bên cạnh gọi xách mé Thần hòang làng mình là thằng ăn trộm. Mà đầu cua tai nheo là chuyện con dâu ông nội điếu tôi chẳng chịu đẻ đái gì sất cả. Mặc dù mợ ấm hương nhan đèn thắp hết đền này tới miếu kia, mong có thằng con cầu tự, nhưng chẳng đi đến đâu. May có người mách đền thờ quan Nội Hầu Phạm Ngũ Lão linh thật là linh. Ai chứ Phạm tướng quân dầu gì cũng dây mơ rễ má đến nghề trồng thuốc lào ở bên Lào, chứ đâu có xa lạ gì. Mà linh trông thấy thật, đúng đêm rằm Phạm tướng quân hiện về bay là là như cánh diều vào trong làng. Nhưng Ngài nỏ mắt tìm không ra một mống nào trông cho ra cái hồn người. Vì làng trồng gì không trồng lại đi trồng...thuốc lào, đầu thôn cuối xóm tòan là thợ cắt, thợ ủ, thợ đấu. Ngài tự hỏi chẳng biết ai mang cái giống thuốc lào về đây mà trồng cho vướng chân vướng cẳng. Và tính vào nhà báo mộng cho ông nội điếu tôi biết chuyện...của khôn người khó là thế đấy. Vừa dậm bước vào nhà, Phạm tướng quân trợn mắt, bắt gặp ngay "Thằng ăn trộm" đang lúi húi nhét "điếu tôi" vào cái bị. Vì không ít thì nhiều, "điếu tôi" cũng là của gia bảo của dòng họ Vũ tự thưở tám kiếp nào rồi. Ngài nhìn kỹ thì còn ai trồng khoai đấy này, chính là ông Thần hòang làng điếu tôi. Bị bắt quả tang, sợ quá, ông Cửu Võng đánh rơi "điếu tôi" xuống đất. Phạm tướng quân ớ ra vì cái khó nó bó cái khôn. Chẳng là vai vế phẩm hàm sau ông nội tôi là ông Cửu Võng. Ngài tính hóa kiếp ông này cho đầu thai vào mợ ấm tôi, nay túm tó ông này lại là...thằng ăn trộm. Chưa biết tính cách nào cho phải nhẽ, thấy trời cũng gần sáng, đã đến lúc Ngài phải thăng. Chợt Ngài nhìn xuống đất, và thấy "điếu tôi" đang...nằm chờ thời. Phạm tướng quân vuốt râu, bật cười ha hả và vù biến mất. *** Đúng ngày đúng tháng, mợ ấm có được cậu con quý tử, còn ai trồng khoai đất này là..."lão" đây. Đúng là con cầu tự có khác, có nhau tràng quấn cổ, tai dầy như tai Phật, nhưng nghịch tinh thì không ai bằng. Như trên đã kể chuyện cho con cháu nghe, ngày còn bé tí lão nhón cái xe điếu cắm vào cái tĩn gà của cái điếu bát làm một hơi rồi lăn quay ra như cóc cụ say thuốc lào. Ngoài ra còn chơi trò lấy cái xe điếu thổi vào tĩn con vịt cho bụng...chương phềnh phềnh lên, thế nên cả nhà gọi lão là...thằng xe điếu. Lão đang tiếc hùi hụi quên không kể cho hai thằng cháu nghe chữ nghĩa lỗ mổ lơ ngơ chữ Nôm với "câu" thì Hán tự là "điếu", với "điếu ngư" là câu cá. Từ đó có "điếu đồ" là người đi câu với chiếc thuyền câu là "điếu thuyền". Sau cụ Nguyễn Khuyến có bài "Thu điếu" tựa gối ôm cần câu chẳng được nên cụ bẻ cái cần câu trúc làm...cái xe điếu. Rồi đến vua Lê Thánh Tông qua bài thơ tự trào, khẩu khí Cái xe điếu có câu "Buông ra cho thiếp...kêu trời". Thì bỗng đâu "Cá đâu đớp động dưới chân bèo" có tiếng gọi: - Dậy đi học thằng xe điếu... Nằm ngã bất tỉnh nhân sự chẳng biết bao lâu, lão chòang tỉnh dậy vì nghe thấy có ai gọi lão bằng cái tên tục từ cái thưở thiếu thời ấy. Cái tên mà bằng vào cái tuổi gần đất xa trời này, nay mới lão mới được nghe lại và lão cho rằng chỉ là tiếng gọi của qúa khứ trong giấc mơ hoang, vậy thôi. Tiếp, lão thấy người ê ẩm, và giật mình thấy trời chiều bảng lảng bóng hòang hôn lúc nào không hay và định thần tự hỏi cớ sự gì mình nằm đo đất ở đây. Thế nhưng vẫn nằm nướng thêm một lát cho êm ả, bỗng lão hỏang hồn nhớ lại cái ngã trời giáng hồi nãy và chuyện lão tiều phu lên rừng đốn củi. Bằng cái tuổi này, lão tự hiểu đó là chuyện cổ tích với "Ngày xưa...", với hoang tưởng và hư cấu. Lão đứng dậy yên chí mò mẫm sờ đầu thấy râu tóc không mọc ra tí nào, quần áo có nhăn nhúm thì có đấy. Và lão nghĩ ngay đến một số bài báo gần đây, viết về những "Lỗ hổng thời gian" của một số người vượt thời gian không gian, lạc đường về quá khứ và tìm lại tiền kiếp của mình, ở một góc làng xa xôi hẻo lánh nào đó có cái cầu này, con sông kia. Để đánh dấu một chuyến đi có thật với dấu tích, họ mang về được cái đồng hồ quả quýt hoen rỉ, hay quyển thánh kinh cũ kỹ cả mấy trăm năm! Lão dợm bước lù khù như con cu cườm và thầm nhủ cứ như truyện Ngộ Không Tôn Hành Giả hóa phép không bằng. Thế nhưng quay sang bên cạnh, lão muốn dựng tóc gáy, sợ như bò thấy nhà táng vì không thấy cái xẻng đâu nữa. Mà thay vào đó là một vật cũ rích, mốc meo như món đồ cổ lâu ngày. Dụi mắt nhòm một lần nữa cho chắc ăn, và lão điếng người vì va vào mắt lão một cái gì quen thuộc nằm ngay trong cái hố chanh mới đào... Giời ạ, ông giờ có mắt xuống đây mà xem, nó là...cái điếu bát. Lom lom nhìn lại cái hố chanh. Cái điếu bát vẫn còn nằm đấy như một chứng tích, như muốn nhắc nhở lão một dấu ấn nào khác nữa với hai quên một nhớ trong một cõi đi về. Lõ mắt kỹ hơn, lão không thấy...cái xe điếu đâu cả. Và
lão thẫn thờ như gà rù giữa buổi đồng vắng...
Thuốc lá, thuốc lào Đông Phong Nguyễn Tấn Hưng Theo G.S. Nguyễn Thế Anh, thời thế kỷ XVII nước ta đã thu nhận được nhiều thực vật từ ngoại quốc đem tới trồng như ngô, đậu Hà lan, thuốc lá...Thật vậy, trong Từ diển Việt - Bồ - La có ghi trên cột 785 : Thuốc lào : tabaco (Bồ). betum 8 (La). ăn thuốc : tomar tabaco. Betum haurire. hút thuốc : idem. Lê Khả Kế - Nguyễn Lâng dịch thuốc lào là " tabac pour pipe à eau " [thuốc để hút với điếu nước] ; " tabac rustique " [thuốc lá theo lối nông thôn, quê kệch là thuốc Cẩm Lệ]. Danh từ thuốc lá theo nghĩa cigarette không có trong từ điển Việt - Bồ - La. Ngoài ra, khi truyền giáo tại Đàng Trong (1618-1622), giáo sĩ Cristoforo Borri nhận xét vắn tắt là dân bản sứ biết dùng thuốc lá (thuốc Cẩm Lệ), tuy không nhiều bằng ăn trầu. Nhưng giáo sĩ không cho biết nguồn gốc của thuốc lá dùng tại đây. Vả lại từ nguyên (étymologie) của thuốc lào và thuốc lá là thế nào ? Trong từ điển Việt - Bồ - La, ta thấy :Cột 784 : thuốc : mezinha. pharmacum, medicina [thuốc để chữa bệnh]. Cột 400 : thuốc lào : reino dos laos ; laorum regnum [royaume des Lao, vương quốc của người Lào]. Thời thế kỷ XVII tên nước Laos chưa được thông dụng trong ngôn ngữ Tây Phương. Chẳng hạn, Cha Giovanni Filipo de Marini viết cuốn Relation nouvelle et curieuse des royaumes de Tunquin et de Lao (1666). Nhưng năm 1651, Cha Henry Albi là người đầu tiên dùng chữ Laos để dịch chữ YÙ Lai (pluriel de Lao), khi ông dịch tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes Relazione de felici sucessi della santa fede predicata dà patri della Compània di Giesu nel regno di Tunchino sang Pháp ngữ thành tác phẩm Histoire du royaume de Tunquinet des grands progrès que la prédication de lÉvangile y a faits en la conversion des Infidelles (Lyon, 1651, tr. 2), Như vậy thuốc lào là thuốc ngoại được nhập qua đường Lào, và khi đầu có lẽ người ta gán cho loại thảo mộc này công hiệu chữa bệnh nào đó, thế nên mới gọi là thuốc. Nhưng với Hán-Việt, thuốc lá-tabac được gọi là yên hay yên diệp . Để kết thúc bài viết này, xin dẫn đại học-giả Lê Quý Dôn (1773)14 :" Sách Thuyết-linh chép : Thuốc lá (yên diệp) sản-xuất từ đất Mân. Người ở biên giới bị bịnh hàn, không có thứ nầy thì không trị được. Vùng quan ngoại, thuốc lá rất quý, đến nỗi có người đem một con ngựa đổi lấy một cân thuốc lá. Năm Quý-vị (1643) trong niên hiệu Sùng Trinh, vua Tống Tư Tông hạ lịnh cấm cây thuốc sản xuất ở Lữ Tống (Luçon - Phi Luật Tân) vốn tên là đạm ba cô (từ tabaco là tiếng Bồ hay tiếng Tây Ban Nha thay vì tobacco của Anh). Người nào trồng cây thuốc thì bị tội đồ. Nhưng phép thì nhẹ mà lợi thì to, không ai tuân theo chiếu lịnh của vua. Chẳng bao lâu nhà vua phải đình chỉ lịnh cấm ấy. Thôi, kể lắm chuyện rồi, tôi mạn phép ngừng viết ra ngoài vườn hút một điếu thuốc lá. Saint Avé, ngày 13.1.2009 Chú thích (*) : Từ "Xuân Hương thi tập" thời Minh Mạng, đến bản chép tay "Quốc Văn Tùng Ký" soạn vào thời Tự Đức đến đầu Duy Tân; các bản chép tay "Xuân Hương thi sao", "Tạp thảo tập", "Quế Sơn thi tập", "Xuân Hương thi vịnh", "Liệt truyện thi ngâm" và "Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập". Không có nguồn nào cho hay bài thơ Cái điếu bát của bà Hồ Xuân Hương. Chỉ biết rằng theo
giai thọai bà chúa thơ Nôm từng ở quê nhà thuở nhỏ. Bà
rất thông minh, đĩnh ngộ, chỉ nghe lóm mà hay chữ. Năm 13
tuổi đã biết làm thơ, có biệt tài về thơ Quốc âm; đã
từng xướng họa với Dương Tri Tạn, một danh sĩ trong làng.
Một đôi lúc bà Hồ Xuân Hương rất dạn trai, không bẻn
lẽn khi con trai chọc ghẹo, tính hồn nhiên. Dương Tri Tạn
đã mượn cớ sáng tác Vịnh cái điếu bát để đùa
cợt bà:
Có thể vì vậy, có người mượn thơ Dương Tri Tạn đẻ làm bài Cái điếu bát rồi gán ghép cho bà Hồ Xuân Hương chăng? |
|