Chim Việt Cành
Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Vân tán, tuyết
tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết, người biên khảo đất La Sơn
cặm cụi trong thư phòng. Ông xuất thân Sorbonne năm 1936, ngồi
ở cái bàn cổ Louis thứ 16 này từ năm 1952. Với gia sản
một mẻ chữ Nôm, khủng khỉnh cọ đít nồi nhăm câu đối
Hán để hoài nghi chi hồ giả dã rằng một số thơ truyền
khẩu trong dân gian của bà Hồ Xuân Hương là giả, là không
có thật.
Chuyện là đang vật lộn với bài khảo luận, biên khảo có tựa đề Bà Hồ Xuân Hương tân biên liệt truyện, nhưng ông lại đụng chạm đến bà Huyện Thanh Quan. Số là hai bà cùng làng Nghi Tàm, lại có chung hai bài thơ Chùa Trấn Bắc và Cảnh thu cho đến bây giờ trong văn học sử còn đang tồn nghi. Riêng bà Huyện, những tác phẩm của bà được truyền tụng qua những bài Đường thi như Thăng Long thành hoài cổ, Chùa Trấn Bắc, Nhớ nhà, Cảnh chiều hôm nhiều thành ngữ chữ Hán hơn bài Qua Đèp Ngang. Vì vậy ý tại ngôn ngoại của ông là bà Huyện chưa chắc đã đi qua Đèo Ngang? Ấy là ông ăn
vẹt ở mòn cho là vậy, nhưng theo ông chủ quan và suy luận
vô căn cứ là hai nguyên nhân dẫn tới sai lầm của nhà biên
khảo. Nguyên nhân chính là sự tin tưởng hoàn toàn vào sách
cũ, thu mình trong thư viện, do không đánh giá, chọn lọc,
không cân nhắc kỹ càng các tài liệu sẽ để lại những
sai lầm cho người đi sau.
Lắm khi phải khổ công đi tìm hỏi và lắng nghe...đồng cô bóng cậu chẳng hạn. Và trong cơn đồng thiếp, người biên khảo đất La Sơn thiếp đi trên bàn kỷ với đồ tứ bảo đang bày sẵn... Qua giấc hương quan mơ luống mẫn canh dài, tỉnh giấc mơ hoang người biên khảo đất La Sơn bắt gặp mình đang ngồi đồng ở quán nước vối bên đường. Dưới gốc cầy bàng già cỗi là một quán lợp tranh, lơ thơ vài nải chuối ngự, ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Ông tự hỏi tại sao mình lại có mặt ở nơi chốn này và cớ sự gì đẩy đưa bên kia đường lại có một ngôi đền...! Đền Kim Liên Nhưng ông không
chắc đó là đền Kim Liên thờ chúa Trịnh Giang. Vì cứ theo
như ông gối đầu trên giá sách thì bà Hồ Xuân Hương, tiểu
thiếp của ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển ở Quảng Yên.
Sau khi ông bị tử hình, bà vào chùa tu và sống những ngày
cuối đời ở làng Nghi Tàm, bà từ trần khoảng năm 1822 tại
Cổ Nguyệt Đường bên Hồ Tây. Mộ phần trong khu nghĩa địa
Đồng Táo trước đền Kim Liên, bên cạnh hồ sen. Nay nghĩa
địa đã chìm trong lòng nước Hồ Tây, do việc đắp đường
Cổ Ngư chia hai Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch, vì mực nước dâng
lên một thước.
Vào đến chính
điện nhang thơm đèn thắp, trầm lắng đứng trước mắt
ông là một bức tượng nữ lưu mặc áo dài mầu hồng đào.
Nhưng khuôn mặt thật thanh thoát chẳng giống...bà Đoàn Thị
Điểm cho mấy, dù rằng từ tấm bé đến nhớn, ông chưa
thấy mặt bà lần nào. Lại nữa, không có văn chỉ, sắc
phong, bài vị hương linh nên ông không biết là ai. Mắt đảo
tít như lạc rang, nhìn qua bên trái, va vào mắt ông là một
cụ áo lương khăn lượt, tay phe phẩy cái quạt xếp, đang
lui cui sắp hoa quả. Ông chắc như bắp luộc là...cụ Từ
giữ đền. Ông giả bộ húng hắng ho đánh tiếng, cụ quay
lại. Thêm một lần đập chát vào mắt ông là cái thẻ bài
ngà đeo trước ngực. Trong đầu ông râm ran, nếu nhằm vào
thời một thưở hoàng kim thì ắt hẳn cụ đây là kim tiền
thoát xác của một ông quan. Mà là quan..."cà-mèng". Vì nếu
đeo thẻ bài ngọc hay kim khánh mới là quan quả của triều
đình, không bộ Lễ, bộ Hình thì cũng...bộ binh.
Ông đạo đạt sự hiểu biết lỗ mỗ lơ ngơ với cụ áo lương khăn lượt đang đứng bên cạnh. Cụ phất phơ suy nghĩ, rồi phẩy cái quạt chỉ về hướng trai phòng. Sau khi thủ lễ và vấn danh, ông thổ lộ tâm can thổ ngơi ông ở Kẻ Trổ, huyện La Sơn. Đường họan lộ không ngoài biên khảo, biên soạn như đếm củ dưa hành đo lu nước mắm vậy thôi. Hay nói cho đúng ra ông chẳng hẳn là hàn nho mãi tự, mà chỉ vì nhân sinh quý thích chí, hiểu theo nghĩa là thích thì làm. Hơn nữa công việc của ông không ngoài thuật nhi bất tác như người Khổng Khâu, là chỉ thuật lại chứ không sáng tác. Chính xác hơn thì ngành biên khảo không có tính cách sáng tạo mà thuộc về học thuật. Cụ gật gù rằng có nghe ông học trường Bưởi, sau qua Alber Sarraut, rồi đi Tây, xưa kia có về nước làm việc với hội Truyên bá chữ quốc ngữ dậy i tờ...rít, với "a" là...quả na này nọ. Ông mạo muội tham vấn qúy danh cụ. Cụ khủng khẳng là thời buổi này không có danh thì quá...dễ. Nghe lạ! Tiếp, người biên khảo đất La Sơn bộc bạch ông sinh năm 1908, với ý đồ cả hai đồng canh, đồng tuế để dễ bề xưng hô cho phải lễ nho gia. Làm như điếc đặc, cụ hỏi ông như con dế trống đi xa, lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi, rồi ra ông sẽ dế mèn phiêu lưu ký về đâu? Ông chột dạ vì thấy cụ cũng hay chữ...quê mùa quá lắm. Nên ông ngỏ lời là muốn thêm dữ kiện để biên thuật, biên tác về bà Huyện qua...đồng cô bóng cậu. Vì ông nghe đâu đó dưới Cảng Phòng, có một bé con mới lớn đang bì bạch tắm truồng cạnh chum nước, đột nhiên ngã cái bạch, tỉnh dậy biết mọi chuyện thiên cơ bất khả lậu và hóa thân thành..."Cô". Đại thể ông muốn hỏi cô đồng bài thơ Cảnh thu và Chùa Trấn Bắc phải chăng là của bà Huyện. Nghe xong cụ quơ cái điếu cày, cái bong bóng lợn xẹp lép bỏ vào cái giỏ mây. Xong, ới một chiếc "xe con". Ngồi trên xe, ông lẩn đẩn rằng hoài bão ông đang muốn gặp một nhà bác học, bác vật, trên thông thiên văn, dưới thuộc lòng địa lý để kiến văn sở thị thì may quá lại gặp cụ. Nếu như cụ đây là...cụ Từ thật, thì ông cũng ăn mày chữ nghĩa cụ ít nhiều về gia thế, gia cang bà Huyện. Nhưng chả may gì, vì thay đi Hải Phòng cụ nói bác tài ghé đền bà Chúa Liễu, và nhúm một cô đồng. Rồi xuống bãi Phúc Xà bên sông Hồng và...xuống thuyền. Ông chột dạ sao xuống Hải Phòng mà lại đi bằng thuyền! Lại mang cái bong bóng lợn xẹp lép theo? Bỗng cụ quay sang hỏi phải chăng ông là người Hà Tĩnh? Khi không ông đâm ra lo lo, vì đi biển mà cụ đây...lú lẫn thì mất vui. Thuyền ra cửa biển xuôi nam...Để thăm chừng, ông dọ dẫm cụ về học thuật của ngành biên khảo, vì là nhà biên khảo đúng nghĩa phải có kiến thức rộng rãi, vốn sống, tránh cảm tính hoặc duy lý. Là nhà biên khảo như ông phải biết lý luận và luận giải rằng trong sách vở không nói bà Huyện vào kinh nhận chức Cung trung giáo tập bằng phương tiện nào? Nhưng theo ông thì bà đi bằng thuyền. Nhưng ông chưa có bằng chứng đích xác, chỉ là phỏng đoán. Cụ rất tâm đắc với ông vì bà Huyện đi bộ hay thuyền thì cũng tới...Huế. Sau đấy ông bị
say sóng, nằm bẹp dí bao lâu chẳng biết nữa. Tỉnh dậy
đã tới Nghệ An, mượn nỗi nhớ...Paris đèn vàng. Ông buồn
môi ngứa miệng với bài Chiều hôm nhớ nhà không ngoài
ý đồ dò la cụ Từ về nỗi hàn ôn, lữ thứ của bà Huyện,
về văn khảo, văn học này kia, kia nọ:
Ông bình thơ luận phú với cụ là trong 8 câu bài này có 5 câu dùng từ Hán. Theo ông chỉ một vốc chữ Hán không thôi nhưng có hồn, có cốt, có tráng qua chút văn chương chữ nghĩa như thế đấy. Nghe xong, cụ ậm ừ: "Ông giáo dậy i tờ...rít...sao tôi nghe vậy". Rồi thôi. Thôi thế nào được, ông trộm nghĩ cụ đây chữ nghĩa ăn đong nên...đong không đầy lọ mực. Ông bèn gọt cốt vừa giầy với "Ốc: tù và làm bằng vỏ ốc lớn. Viễn phố: bến xa. Cô thôn: xóm vắng. Ngàn mai: rừng mai. Dặm liễu: dặm đường có trồng liễu, ý nói đường xa. Kẻ chốn Chương Đài: người vợ đang ở nhà. Lữ thứ: người đang ở xa quê. Hàn ôn: lạnh ấm; nỗi hàn ôn là chuyện tâm tình. Tâm ý ông muốn nhắc khéo cụ là thời trước thế ấy, thời này thế đó, nào có khác gì như cái thời cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân của ông ở bên Tây! Chưa hết, ông tính kể lể cho cụ nghe các nhà học giả, học thật quái ác với râu ông này cắm cằm bà kia (1). Như bài "Chiều hôm nhớ nhà"có tựa đề Cảnh chiều hôm. Bài "Cảnh chiều hôm" lại mang tựa Chiều hôm nhớ nhà. Nhưng nghĩ sao lại thôi, vì Cảnh chiều hôm như là một dị bản của Chiều hôm nhớ nhà nói ra chỉ tổ làm cụ rối như canh hẹ thêm. Thêm nữa, cụ Từ thì biết quái gì về thơ phú với bút khảo. Vớ vẩn cụ lại học thói nho gia như...ông rằng lập thân tối..."dạ" thị văn chương thì cũng rõ khổ. Khổ đâu chưa
thấy đã thấy cụ nhúc nhắc ông muốn hỏi thơ tả cảnh
buổi chiều, hay...buổi sáng thì hỏi cô đồng. Thế là cả
ba ngồi xuống chiếu. Ông bèn hỏi cô đồng phải chăng bài
Cảnh
thu là của bà Huyện Thanh Quan? Hỏi rồi, ông ngáo ệch
nhòm vì trước mặt cô là cái đĩa có cái chân gà khô queo
khô quắt và hai đồng trinh. Cô loáy nhoáy thắp hương, cúi
mặt xuống chiếu khấn âm dương một hồi lâu. Trong tĩnh
lặng, cô cúi đầu xuống lạy cái chân gà quắt queo ba lạy
như tế sống...ông. Ông thuỗn mặt ra vì chả hiểu "đồng
cô bóng cậu" này thuộc Tam phủ,
Tứ phủ của
Đền Phủ Giầy thờ Mẫu địa hay Đền Quốc Oai thờ
Mẫu
thiên đây?
Múa may hát hỏng
một hồi xong, cô hầu bóng:
Lạy
bà! Bà ở trên ngàn - Thương con đệ tử trần gian bà về
và
cô dẫn dụ rằng: Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm
làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương vào chùa
lạy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa.
Ngó lên xem thấy xanh om cổ thụ tròn xoe tán, nên...ngẩn ngơ
làm bài thơ trên.
Nghe thủng xong,
ông đực ra như ngỗng đực vì sao cô này biết tiếng Tây
tiếng u như ông. Chạy trời không khỏi nắng là đồng thiếp
nhập vào cô chẳng sai chạy. Vì vậy ông hắng giọng hỏi
về bài thơ
Chùa Trấn Bắc. Cô nhướng mắt, vẫn giọng
ái nam ái nữ:
Xá lầm, xá lú, xá
mê - Trần gian bà về, bát nhã thuyền huê
và cô đắp chữ vá câu:
Nghe ông hầu cô
bóng cậu xong, cô chầu văn:
Bà
về bát nhã thuyền huê - Con cõng đệ tử ngồi kề hai bên.
Biết ý, ông và cụ Từ ngồi hai bên cô đồng. Và cô tiếp:
Bà về để thấy cái nhà bác này khéo dệt chuyện. Vì bà
chúa Nôm chỉ theo chồng là ông Hiệp trấn Trần Phúc Hiển
cáng võng tới Quảng Yên là hết đất. Có ăn gan giời trứng
trâu, thân gái dặm trường cũng chả dám hẻo lánh tới đèo
Ngang. Rồi mặt cô đồng như một thánh nữ hiển hiện trên
chín tầng trời với hư trúc niết bàn chẳng đâu xa, vái
sống ông hai lạy, quay về hướng núi lạy bốn lạy và...thăng.
Cô thăng tới...đuôi thuyền vẫn còn đồng bóng tiếp:
Lạy
bà! Bà đẹp chín nghìn - Trăng còn thua sáng, hoa nhìn kém tươi.
Ông hiểu ra bà đây là bà chúa thơ Nôm.
Bước tới Đèo
Ngang, bóng xế tà,
Buồn tình ông
thêm dấm thêm tương rằng bà Huyện Thanh Quan chân cứ thung
thăng mà bước mà không bị vướng vào câu. Tay cứ tự do
vung vẩy mà không ngại bị va vào chữ. Tâm viên ý mã ông
muốn lươn khươn với cụ là bà Huyện tới đèo Ngang thì...đi
bằng thuyền. Như vua Lê Thánh Tông chả hạn, chả là mùa
xuân năm Canh Dần (1471), quốc vương Chiêm Thành là Trà Toàn
đem 10 vạn thủy quân đánh úp Châu Hóa.
Ngày 16, vua Lê Thánh Tông thống lãnh thủy quân đi đánh Chiêm
Thành, trên đường đi gặp mưa, vua có câu thơ răng: "Trăm
vạn quân đi đánh cõi xa Mui thuyền mưu đội thấm quân
ta". Ngày 28, vua bắt sống Trà Toàn
ở Chà Bàn. Tháng Tư năm ấy, trên đi về thì gặp lúc hoàng
hậu và thái tử đi thuyền nhẹ tới Nghệ An đón vua. Vua
đưa hoàng hậu ngược về Hà Tĩnh và rong thuyền ở đây
cả một mùa hạ.
Ông định hỏi
han cụ về hồn phách thơ vua Lê với bà Huyện ra sao. Cụ
bỏ ra mũi thuyền đứng, văng vẳng tiếng cụ Từ rơi rớt
lại thì bài thơ của vua Lê chả hay ho gì. Chỉ giống nhau...cái
tên thôi. Thuyền rẽ mũi vào một eo biển sâu vào đất liền
cả mấy cây số. Bên bờ có bãi đất rộng, có làng làm
nghề chài cá. Ông men lại, cụ chỉ trỏ rằng trước kia
nơi đây thuyền chài tránh bão, sau hải thuyền nhà Nguyễn
làm nơi trú quân vì vậy mới có chợ Đồn. Chẳng phải đợi
cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, là nhà biên khảo phải
có cái nhìn tinh tế, vốn sống, không nên thờ ơ, phải biết
lắng nghe. Nghe xong, ông chắc như bắp luộc với cụ là vua
Lê đi thuyền đến đây đã thấy bãi
thẳm ngàn xa cảnh vắng teo, đèo Ngang lợi bể nước trong
veo.
Ghé chợ Đồn,
cụ Từ sắm sửa ít đồ nhắm và mua rượu Kim Long san vào
cái bong bóng lợn. Xô xác trông lên rồi, rồi cụ rủ cả
hai leo lên đỉnh Đèo Ngang ngắm cảnh trời trăng mây nước
như vua Lê, bà Huyện xưa kia cả mấy trăm năm trước. Nhưng
đồng cô bóng cậu núm xúm trông lên chả muốn...sóng muốn
trèo nên lắc đầu nguây nguẩy vì "Cô" đâu phải là...sóng,
hay là bà Huyện Thanh Quan mà dám leo lên cái dốc thẳng đứng
thế kia.
Khi không người
biên khảo đất La Sơn bám như cua cắp với cụ rằng bài
Qua Đèo Ngang của bà Huyện với
"quốc
quốc" và "gia
gia". Thì có thể khởi đầu từ Trần
Danh An, một di thần nhà Hậu Lê vay mượn hai câu chữ Hán:
"Dạ
thính đỗ quyên minh cuốc cuốc - Nhật văn cô điểu
khiếu gia gia", tạm hiểu nghiã
là đêm nghe đỗ vũ kêu cuốc cuốc,
ngày lắng gà rừng gọi gia gia.
Diễn nghĩa là:
Ông luận giải
từ con đỗ vũ kêu cuốc cuốc, chim
giá cô hay cô điểu tức gà rừng
hoặc gà gô gọi gia gia,
chỉ là hai chữ đối cảnh trong nỗi nhớ nhà. Cụ lại vẫn
cái mửng cũ rằng: Chữ nghĩa cụ lờ đờ như gà ban hôm
nên đâu có biết...con giá cô, con gà gô nó kêu ra làm sao?
Và cứ theo nhẽ cụ thì nhẽ ra hai câu thơ của bà Huyện:
"Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng
cái gia gia"
phải là:
"Nhớ nước đau lòng con
cuốc cuốc, thương nhà
mỏi miệng cái gia gia" mới hợp
tình hợp cảnh theo nhẽ bình thường.
Nghe vậy, ông
phân bua với cụ qua câu nhớ
nước
đau lòng con quốc quốc thì:
"nước" đối với "quốc". Vì Hán tự thì quốc đây là thổ
địa, là một nước. Và câu thương nhà
mỏi
miệng cái gia giathì:
"nhà" đối với "gia". VìHán tự vớigia
đây là nhà, để thành "nước nhà".Còn "con" ở câu trên đi
với "cái"ở câu dưới cũng chỉ là đối chữ thôi. Đó là
thể đối thơ thất ngôn có tên "Gối hạc" như Cao Bá Quát
với một chiếc cùm lim chân có đế, ba vòng xích sắt bước
thì vương.
Với bà Huyện Thanh Quan, qua chữ nghĩa văn học bà chỉ được biết đến mới đây khoảng giữa thập niên 30 và 40 (4) . Thế nên từ bài thơ chữ Nôm "Qua Đèo Ngang" theo thể Đường luật thất ngôn, bát cú được một người nào đó vì nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc dịch nghĩa ra con ...quốc quốc chăng? Nói cho ngay, chính người biên khảo đất La Sơn cũng không hay biết! Ấy là chưa kể
tận tín thư bất như vô thư với ông Lê Văn Phát qua tác
phẩm Contes et Légendes du Pays d'Annam bằng chữ Pháp có
văn bản
Le Râle d'eau trong đó cũng có bài thơ Đèo
Ngang rặt chữ Nôm, giống hệt bài Qua Đèo Ngang của
bà Huyện. Le Râle d'eau kể chuyện vua La Hoa nước Chiêm
Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Một cận thần tên Quốc hết
lời can gián nhưng vua không nghe. Quốc xin theo để bảo vệ
vua. Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa trúng tên
chết. Quốc xông ra lấy xác cũng bị chết theo. Quá uất ức,
hồn của Quốc không siêu thoát được, vất vưởng quanh Đèo
Ngang để tìm xác chủ. Sau Quốc tái sinh là con chim cuốc cất
những tiếng kêu bi ai: "Quốc Quốc, La Hoa, Quốc ở đây,
còn La Hoa ở đâu?".
Nhìn lên đèo Ngang cao ngất trời, ông lắc đầu ngao ngán vì gì mà cao quá thể vậy trời. Đang ì ạch leo lên, bỗng cụ Từ hỏi ông sao lại gọi là đèo Ngang, nghe...ngang như cua ấy. Ông cũng chẳng hơn gì, cái đầu biên khảo lắm chữ của ông cũng đang bí ngô bí khoai và tự hỏi cớ sự gì chẳng ai bảo ai, từ vua Lê Thánh Tông, di thần Trần Danh An, dân Chàm mất nước, đến bà Huyện đều làm thơ cái đèo...ngang ngang chân núi không một áng mây bay để...rách chuyện cho những nhà biên khảo. Gần tới đỉnh đèo, ông vừa thở ra khói, vừa nghĩ quẩn là bà Huyện đi thuyền qua đây, nghe giai thoại dân gian Chàm với hai câu thơ nguyên thủy: Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc - Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa, rồi đi luôn một mạch tới Huế. Tới kinh đô, bà trau chuốt lại bài Đèo Ngang để có bài Qua Đèo Ngang thành bài thơ của mình chăng? Ai biết đó là đâu, có thể lắm ạ. Và với cảm tính của người biên khảo đất La Sơn là vậy. Ai
mà chẳng hay nhà biên khảo phải có kiến thức và quan sát.
Thế nên người biên khảo đất La Sơn biết ngay cổng này
do vua Minh Mạng xây năm 1833. Trong khi ấy cụ Từ lôi đồ
ăn thức uống ra bày ra ở ngay dười gốc cây cạnh đường.
Cụ làm một hơi rượu Kim Long, bắn vài bi thuốc lào, giọng
cụ âm ỉ hoài đồng vọng về một thời xưa cũ: "Dừng
chân đứng lại, trời, non, nước...". Hóa
ra cụ đồng cảm với ông, nhòm Cổng Giời cổ kínhcó tự
trăm năm kiến trúc kiểu Hy-La Gothic, ông cũng u mặc, u mê
đến...Arch Triump ở đại lộ Champs Élysées nữa là...
Cạn chén hạt
mít, cụ Từ nén viên thuốc lào nhét vào ống điếu, châm
lửa, thổi ra khói. Nhìn xuống chân đèo, cụ râm ran qua khói
thuốc, qua luống đoạn trường:
"Một
mảnh tình riêng, ta với ta...". Ông
lại lan man ai chẳng một lần trong đời với những tiếc
nuối. Cụ cũng thế, thế nhưng ông nhủ thầm: Một mảnh
tình riêng nào đây? Nhưng không tiện hỏi...
Người biên khảo
đất La Sơn như muốn nhẩy nhổm lên:
Còn giai thoại
Phú
cho Nguyễn Thị Đào thì nhân một hôm ông Huyện lại đi
vắng, có một người đàn bà còn trẻ, tên Nguyễn Thị Đào
đến cửa quan kiện người chồng phế bỏ việc gia đình,
hắt hủi vợ nhà, nên xin quan trên cho mình được bỏ chồng.
Nhận thấy lá đơn lời lẽ rất cảm động, thương cho người
thiếu phụ chịu lỡ dở, bỏ cả xuân xanh trong cảnh cô đơn,
vì thương cảm...Bà ấy đã thay chồng phê vào lá đơn bốn
câu thơ:
Hay chuyện, chồng
cô Đào kiện lên quan trên, ông Huyện bị cách chức. Nhưng
sao đó ông lại được phục hồi, và thuyên chuyển về Bộ
Hình thăng chức Lang trung. Cứ theo mấy nhà học giả, học
thuật như Thầy...thuật lại thì nhờ có tài văn chương lỗi
lạc. Bà ấy được
vua Minh Mạng
vời vào cung phong chức Cung trung giáo tập. Ấy tôi chỉ biết
thế thôi:
Người biên khảo
đất La Sơn lựng khựng trông thấy vì cụ Từ già rồi nên
đốc chứng hay sao ấy, lúc này cứ gọi bà Huyện là "bà
ấy". Chưa kịp hỏi cho ra nhẽ thì hốt nhiên cụ cười nhẹ.
Ngừng lại một
chút, cụ vỗ vai ông thân mật:
Người biên khảo
đất La Sơn đang ngớ ra, đang chộn rộn chàng ràng thì...cụ
Từ. Ấy quên, thì...quan Huyện làm như khó nghĩ lắm rồi
từ tốn:
Như có gì suy
nghĩ lung lắm, quan Huyện chậm rãi:
Quan Huyện chép
miệng một cái tách:
Dặn dò xong, quan Huyện đứng dậy, đi qua Cổng Giời, thăng về giời trong u u minh minh... Phần viết thêm: Loạy nhoạy đến một tháng, người
biên khảo đất La Sơn mới trở lại Paris. Trong thư phòng,
nay trên tường có treo cái điếu cày và cái bong bóng lợn.
Trên cái bàn cổ Louis thứ 16, sáng trưa chiều tối ông ngồi
rị mọ với thiên cổ kỳ bút về bà Huyện Thanh Quan. Xuân
sinh, hạ trưởng và chẳng đợi đến thu liễn, đông tận,
vào một ngày nắng hạ với sinh có hạn, tử bất kỳ... Vừa
lúc viết đến đoạn: Dặn dò xong...quan Huyện đứng dậy...
thì người biên khảo đất La Sơn thiếp đi và cũng ...thăng
theo quan Huyện trong một ngày ít nắng nhiều mây.
Chót chét cho rằng ông không quay quả về chốn nhân gian này nữa. Rồi lớ quớ thế nào không hay, ông rơi tõm vào lỗ hổng của thời gian...Trở về cõi thế tục trong một ngày nắng chầy chầy, ngỡ rằng đã xong cái nợ chữ nghĩa, người biên khảo đất La Sơn thanh thản bước từng bước trên lối mòn xưa cũ. Cũng mấy hôm rày bên Tây Hồ, dưới gốc cầy bàng là một quán lợp tranh, có ít bánh đa vừng, dăm cái kẹo lạc. Ở đấy có hai người: Một đồng cô bóng cậu, một cụ áo lương khăn lượt. Họ thầm thì bảo nhau rằng Kinh thi có câu bách quế quy vu kỳ thất, rằng trăm năm rồi cũng về nhà. Thế nên họ đang ngồi đợi ông, nếu ngày mai không mưa thì nắng...thì họ và ông sẽ mầy mò chuyện cụ Nguyễn Du viết Truyện Kiều vì bà Hồ Xuân Hương. Nghe vậy, ông bước đến gần, ngồi xuống và rì rầm bảo họ ông đang theo chân cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khiêng văn lên bán chợ giời, ngoài cái điếu cày, cái bong bóng lợn xách đến đây để làm vài cữ. Ông còn khuân theo bài biên soạn, biên chép có tựa đề dài ngoằng ngoẵng: Bà Hồ Xuân Hương tân biên liệt truyện. Nguồn: Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Đức Cung, Trần Đăng, Khoa Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Vĩnh Tráng, Lê Xuân Quang. Chú thích: Xưa văn nhân làm
thơ truyền tay nhau thường không có tựa đề, những nữ lưu
trong văn học không lấy bút hiệu và họ thường được gọi
bằng tên tục. Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị
Hinh. Chữ Hán "Hinh" là "Hương" để thành tên. Bà Hồ Xuân
Hương qua tập
Lưu Hương ký thì Hương là tên gọi và
trong bài Mời trầu, bà tự ví "Này của Xuân Hương
đã
quệt rồi".
Ngoài ra người
sau hay đổi tựa đề thơ của hai bà.
Riêng bài thơ về Thăng Long (4) có hai tên Thăng Long thành hoài cổ và Thăng Long hoài cổ. Bài này dựa theo Hương Đình Cổ Nguyệt Thi lúc đầu có tên "Quá phu quân cố lỵ cảm tác" diễn nghĩa là qua chốn chồng làm quan cũ. Có nguồn cho rằng bài Quá phu quân cố lỵ cảm tác là bà Huyện hoài Lê qua cố đô Thăng Long, qua hình ảnh ông Huyện Thanh Quan. Vì Gia Long (1802) đổi tên là Bắc Thành (bà Hồ Xuân Hương thuộc thời Gia Long), sau Minh Mạng (1831) đổi là Hà Nội (bà Huyện Thanh Quan thời Minh Mạng).Vì Thăng Long là cố đô, nên bà không cho là "thành" như Bắc Thành. Nên với bà Huyện Thanh Quan phải là: Thăng Long hoài cổ... Với sách vở tam sao thất bản thì: Bà Hồ Xuân Hương, sớm nhất có Xuân Hương thi tập thời Minh Mạng. Sau này còn có nhiều bản chép tay như Quốc Văn Tùng Ký soạn vào thời Tự Đức, đến đầu Duy Tân thêm Xuân Hương thi sao, Tạp thảo tập, Quế Sơn thi tập, Xuân Hương thi vịnh, Liệt truyện thi ngâm, Lĩnh Nam quần hiền văn thi văn diễn âm tập và...Hương Đình Cổ Nguyệt Thi. Uẩn khúc ở chỗ, khi những nhà sưu tầm làm công việc sưu tập thơ bà chúa thơ Nôm thì Hương Đình Cổ Nguyệt Thi (3) của bà Huyện Thanh Quan lại nằm trong danh mục trên. Ấy là chưa kể
tất cả chỉ có tên của thi tập chứ không có nguyên bản
của thi phẩm trong ấy. Lại nữa, những người đi sau cho
thêm vào những bài thơ không rõ xuất sứ của ai đó theo
ý của mình. Trừ Lưu hương ký với 52 bài thơ
gồm 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm, nhưng cho đến nay
chỉ một số bài được dịch ra chữ Quốc ngữ vì
Lưu
Hương ký bị thất lạc. Văn bản thơ Nôm thất truyền
của bà Hồ Xuân Hương trong kho sách Hán Nôm ở Hà Nội cũng
chỉ còn được 3 bản khắc ván in và nhiều bản chép tay
khác nhau, tổng cộng khoảng trên dưới 20 văn bản Nôm.
Vì thế bà Huyện Thanh Quan cũng mới chỉ biết đến sơ sài qua Dương Quảng Hàm qua Việt văn giáo khoa thư vào năm 1940(4). Theo những bài viết của những nhà biên khảo thì bà Huyện Thanh Quan chỉ để lại 7 bài thơ Nôm, viết theo thể Đường luật thất ngôn, bát cú. Một số nhà biên khảo khác lại cho rằng bà Huyện Thanh Quan chỉ có 3 bài: Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang còn những bài khác được xếp vào diện tồn nghi. |
|