Mỗi
người,mỗi giai đoạn cuộc đời, đều có những cách thức
riêng để ghi nhớ những kỷ niệm của mình. Có thể
đó là một danh từ mỹ miều nào đó. Có khi là tên một
người con gái. Tên một con đường. Tên một quán ăn. Riêng
tôi,mỗi khi nhắc đến những kỷ niệm thuở học trò hàn
vi, tôi lại liên tưởng đến tên một quán cơm bán cho học
sinh nghèo, nằm trên con đường Bùi Viện. Quán có tên là
"Quán Anh Vũ". Một cái nên nghe rất thơ, và rất văn nghệ.
Tuy là quán bán cơm cho học sinh nghèo, nhưng thiết chí, bầy
biện trong quán lại rất ngăn nắp, lịch sự, có không
khí của một quán văn nghệ hơn là một quán ăn nhậu, vì
dù sao, vào thời điểm lúc bấy giờ, khách hàng của
quán, phần đông là những mầm non của đất nước, những
thành phần được mệnh danh là "học sinh là người tổ quốc
mong cho mai sau" cả. Bàn ghế thì tất nhiên, luôn luôn sạch
sẽ tươm tất hơn những quán cơm bán cho dân nghèo lao động
khác, nằm trải dài góc đường Nguyễn Du và Tổng Liên Đoàn
Lao Động, mà người viết lúc đó thường là khách chung tình,
sáng chiều lai vãng. Nhờ lối bầy biện có tính "văn nghệ",
và bán rẻ, lại ngon, quán Anh Vũ được nổi tiếng một thời.
Tại quán Anh
Vũ,thỉnh thoảng cuối tuần lại có một buổi ca vũ, nhạc
kịch và ngâm thơ. Mỗi bữa ăn một phần chỉ mất năm đồng.
Có lần, hồi còn sống ở phòng bốn Trại Học Sinh Di Cư
Phú Thọ với một ông bạn, ông thường rủ tôi đến đó
học ca hát và nhẩy múa để được ăn "cơm chùa". Tôi vốn
là "nhà quê lên tỉnh", từ bé, chỉ biết đánh đáo, thả
diều, và nhẩy "cò cò", nay nghe người bạn bảo học "nhẩy",
tôi liền hiểu lầm nhẩy là nhẩy "đăng sê bà đầm", thì
lấy làm thẹn thùng đỏ mặt, giật mình, lắc đầu quầy
quậy. Không đi.Thế rồi,nghèo quá, bụng đói đầu gối phải
bò, tôi cũng theo người bạn đến quán Anh Vũ. Nhưng cứ chén
cơm xong là tôi lặng lẽ trả tiền rồi múa bài "tẩu
mã", chẳng học hành hát hỏng, nhẩy nhót gì cả. Để mặc
người bạn ở lại một mình. Sau này, vào đầu những năm
của thập niên sáu mươi, tôi không nhớ chính xác, quán Anh
Vũ không bán cơm cho học sinh nghèo nữa, mà trở thành phòng
trà Anh Vũ, mở đầu cho phong trào phòng trà ca nhạc Sài Gòn
sau này.
Tôi không biết
tuổi thọ của quán này là bao nhiêu, nhưng nay tóc tôi đã
phôi phai ngả mầu sương tuyết, hai chữ Anh Vũ vẫn nằm in
sâu trong những kỷ niệm yêu dấu về tuổi học trò hàn vi
của tôi.
Gần đây, trong
một bàn tiệc, ngồi ăn chung với mấy người bạn, tôi không
rõ câu chuyện bắt đầu từ đâu, mà thực khách bỗng tranh
luận xoay chung quanh hai chữ "Anh vũ", làm tôi bùi ngùi,nhớ
lại quán xưa.
Có người bảo
Anh vũ thuộc loài chim.
Lại có người
bảo anh vũ là thuộc loài cá.
Cuộc tranh luận
về "Anh vũ" đã kéo dài đến lúc, tôi chỉ còn nghe thấy
những giọng nói nhựa nhựa của hai chàng lý sự "sờ voi",quyết
baỏ vệ "lẽ phải" của mình. Rời rạc. Mơ hồ. Như phát
ra từ một cõi ngủ mê không rõ rệt, thì bên ngoài trời
cũng bắt đầu đổ mưa. Một cơn mưa bụi, sau nhưng ngày
nóng oi ả.
Tôi trở về nhà,
bị quyến rũ bởi đề tài bỏ dở, bèn mở sách tự
tìm lấy nguồn gốc nghĩa của chữ Anh vũ một mình.
Vì thế,có bài
viết này.
1-Anh
vũ thuộc loại gì ?
A-Nghĩa
gốc của từ Anh vũ 鸚
鵡
Anh vũ nguyên là
một từ ngữ Hán, đọc theo âm Việt.
Tìm trong các từ
điển Hán Ngữ như :
-Sách Thuyết Văn
Giải Tự của Hứa Thận thời Đông Hán, đã giải thích chữ
Anh 鸚
như sau:
"Anh, anh vũ,
năng ngôn điểu dã,tòng điểu,anh thanh 鸚
鸚 鵡 能 言 鳥 也 從 鳥 嬰 聲Anh,tức
Anh vũ,một loài chim có thể nói, thuộc thuộc loại điểu
鳥
(chim),đọc là anh ".
Và chữ Vũ 鵡
thì Thuyết Văn Giải Tự giải thích :
Vũ, tức Anh
vũ,sách Sơn Hải Kinh viết là trên núi Hoàng Sơn có loại
chim này, hình dáng giống như con chim hào 鴞,lông
xanh mỏ đỏ,có thể nói được tiếng người.
-Còn Từ Nguyên,
một cuốn từ điển chữ Hán nổi tiếng, chuyên giải thích
các từ cổ, của Phương Nghị và Lục Nhĩ Khuê, xuất
bản năm 1915, thì giải thích từ ngữ "Anh vũ" như sau :
"Anh vũ là tên
gọi một loài chim,sắc lông mỹ lệ,đầu tròn,mỏ lớn mà
ngắn,phần trên của mỏ có hình dạng như một lưỡi câu,lưỡi
mềm,qua huấn luyện có thể nói được tiếng người."
-Theo Từ Điển
Hán Ngữ hiện đại thì "Anh vũ "được giải thích như sau
:
"Anh Vũ cũng
là một loại chim đầu tròn, phần mỏ phía trên lớn, và
hình dạng móc câu,phần mỏ phía dưới nhỏ và ngắn, sắc
lông mỹ lệ, có loại mầu trắng, mầu đỏ, mầu vàng, mầu
lục, sinh sống ở trong rừng vùng nhiệt đới, ăn trái cây,
có thể bắt chước tiếng người, thường gọi là Anh Ca."
Như vậy sự giải
thích nghĩa gốc Hán tự của chữ Anh vũ ,dù từ điển cổ
hay mới ,đều thống nhất rằng Anh vũ là thuộc loài chim
chứ không phải thuộc loài cá.
B-Anh
vũ qua các từ điển Hán Việt cổ
Trước hết,là
sách "Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa 指
南 玉 音 解 義",một
cuốn sách được các nhà nghiên cứu Hán Nôm coi là một cuốn
tự điển Hán Việt sớm nhất của Việt Nam,trong đó các
từ chữ Hán được giải thích ra tiếng Việt và viết bằng
chữ Nôm, ra đời năm Tân tỵ, gồm 40 chương. Ở chương "Vũ
trùng loại đệ tam thập nhất 羽
蟲 類 第 三 十 一"
tức là chương cắt nghĩa các từ chữ Hán thuộc loại lông
vũ, đã giải thích chữ Anh Vũ là :
Anh Vũ
suất tính người song
Là chim óng mỏ
tiếng dùng líu lô
(Theo bản Minh
Gíam Đừơng khắc năm Cảnh Hưng nhị thập nhị niên Tân
tỵ mạnh xuân cốc nhật tức năm 1761 và bản phiên âm
của Trần Xuân Ngọc Lan in năm 1985).
-Sách "Nhật Dụng
Thường Đàm 日用常談"
của Phạm Đình Hổ 范
廷 琥,
cũng là một loại Từ Điển Hán Việt cổ , giải thích các
chữ Hán thường dùng hàng ngày ra tiếng Việt viết bằng
chữ Nôm, ra đời khoảng năm Minh Mạnh thứ tám,tức 1827,
sắp theo 32 môn như Thiên Văn, Địa lý, Qủa thực, Cầm thú,
Thuỷ tộc...
Phạm Đình Hổ
đã phân biệt riêng rẽ hai cụm từ chữ Hán :
-Anh vũ (鸚
鵡)
-Anh vũ ngư - (
Cá Anh vũ 鸚
鵡 魚)
là hai loại khác
nhau, và xếp vào loài chim (điểu 鳥)
và loài cá (ngư 魚)
để cắt nghĩa từng cụm từ một.
Tại môn "Cầm
thú môn đệ tam thập 禽
獸 門 第 參 拾 "
, Phạm Đình Hổ đã cắt nghĩa một cách ngắn gọn "Anh vũ
là vẹt 鸚
鵡 羅 樾",
còn "vẹt đỏ 樾
赭 "
chữ Hán có tên là "tần cát liễu 秦吉了".
Và tại môn "Thuỷ
tộc môn đệ tam thập nhất 水
族 門 弟 參 拾 壹 "
thì tác giả cắt nghĩa "Anh vũ ngư 鸚
鵡 魚
cũng gọi là cá Gia ngư
嘉 魚"
Tóm lại,mấy cuốn
tự điển cổ liệt kê trên đây, dù Hán hay Việt, cũng đều
thống nhất ở một điểm là Anh vũ thuộc loại vũ trùng
羽 蟲.
Sau này, một số
nhà làm từ điển Hán Việt, lại không cắt nghĩa riêng hai
cụm từ chữ Hán "Anh Vũ" và "Anh vũ ngư" như Phạm Đình
Hổ đã làm, song giải thích " Anh vũ
鸚 鵡"
với hai nghĩa là :
a-Chim Anh vũ, con
vẹt, con két
b-Cá Anh Vũ, là
thứ cá rất ngon ở miền Bạch Hạc, Bắc Kỳ (poisson mandarin).
Từ đó, đưa người
đọc đến sự ngộ nhận, phân vân, không rõ Anh Vũ thuộc
loài chim hay là cá.
Người viết xin
được trở lại mục "Cá Anh Vũ" ở phần sau.
2-Chim
Anh vũ, gốc ở đâu ?
Cổ xưa, dưới
chế độ phong kiến ở Trung Quốc, các nước chư hầu
đều có bổn phận phải vào triều và phải dâng hiến
cống phẩm cho thiên tử, người nắm quyền lãnh đạo tối
thượng đất nước. Những cống phẩm có đủ mọi hạng,
mọi loại. Dưới mọi hình thức. Như thực phẩm. Ngọc ngà.Tơ
lụa.Trân cầm.Dị thú. dựợc vật. Nhạc khí. Thậm chí cả
nô tỳ, và người bị hoạn nữa.
Nước Nam Việt
của Triệu Đà, từ khi Đà khôn khéo từ bỏ đế hiệu, không
đi xe hoàng ốc, và không cắm cờ tả đạo, nhẫn nhịn xưng
thần, tránh được cuộc chiến tranh với nhà Hán để giữ
nước Nam Việt, nhưng không tránh khỏi cái tục lệ phải
đem lễ vật vào triều cống thiên tử nhà Hán như các chư
hầu khác.
Theo sách Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, vào năm 179 trước CN, Triệu Đà đã
sai sứ giả sang nạp cống cho Văn Đế nhà Hán là Lưu Hằng
: một đôi ngọc bích trắng, 1000 bộ lông chim trả sống,
10 sừng tê, 500 vỏ ốc màu tía, một giỏ cà cuống, 40 đôi
chim trả sống, hai đôi chim công.
Đến đời Triệu
Minh Vương, cháu nội của Trọng Thủy, theo sách " Hán Thư-
Võ Đế Kỷ" của Ban Cố đời Hán, thì năm Nguyên Thú nhị
niên, tức năm 121 trước Công Nguyên, vua nước Nam Việt,
lúc đó mới lên ngôi được ba năm, vẫn giữ lệ triều cống
của cha ông mình, cống cho vua Hán Võ Đế, một loại
voi và một loại chim, mà Hán Thư chỉ ghi một cách gọi mộc
mạc là "Voi Dễ Bảo, và Chim Biết Nói -Tuần tượng,năng
ngôn điểu 馴
象,能 言 鳥",
lại không ghi rõ là bao nhiêu con mỗi loại.
Sang đến đời
Đông Hán, có Hứa Thận giải thích Anh Vũ là "năng ngôn điểu"
và đến đời Đường Thái Tông Lý Thế Dân, viên quan
Bí Thư Thiếu Giám là Nhan Sư Cổ được lệnh khảo đính
ngũ kinh văn tự, và chú thích sách " Hán Thư " của Ban
Cố, giải thích Voi Dễ Bảo (tuần tượng
馴 象)
là voi đã được nuôi thuần, và hiểu được ý người.Còn
Chim Biết Nói (năng ngôn điểu
能 言 鳥)
thì Nhan Sư Cổ viết : "Năng ngôn điểu tức anh vũ dã,
kim Lũng Tây cập Nam Hải tịnh hữu chi能
言 鳥 即 鸚 鵡 也 今 隴 西 及 南 海 并 有 之.
Năng ngôn điểu tức là chim Anh vũ, nay (2) ở Lũng Tây và
Nam Hải đều có.
Trong lời chú của
sách Hán Thư còn dẫn sách "Nam châu dị vật chí 南
州 異 物 志"
của Vạn Chấn, chẳng những kể rõ các loại chim anh vũ mà
còn nói thêm là các nước phía nam đất Giao Châu là xứ sở
của loài chim này.
Sách viết rằng
:
" Hữu tam chủng,nhất
chủng bạch, nhất chủng thanh ,nhất chủng ngũ sắc, Giao Châu
dĩ nam chi quốc ,tận hữu chi ,bạch cập ngũ sắc giả kỳ
tính vưu tuệ giải, cái vị thử dã...有
三 種 一 種 白, 一 種 青, 一 種 五 色 ,交 州 以 南 諸
國 盡 有 之 白 及 五 色 者 其 性 尤 慧 解 蓋 喟 此 也
Anh vũ có ba loại, một loại trắng, một loại xanh, một loại
ngũ sắc, các nước phía nam đất Giao Châu đều có hết các
loại đó. Riêng loại trắng và loại ngũ sắc tính rất thông
tuệ, nên mới gọi như vậy.
Giao Châu nguyên
khi trước tên là Giao Chỉ, đến năm 203 CN,đời Hán Hiến
Đế,Thứ Sử Trương Tân và Thái Thú Sĩ Nhiếp xin cải là
Giao Châu.
Anh Vũ là một
loài trân cầm của nước Nam Việt thời đó, chẳng những
đã đẹp về mầu sắc, dùng để quan thưởng, lại còn thông
tuệ biết nói tiếng người, nên được coi là một cống
phẩm vừa quý báu vừa lạ kỳ.
Trong văn chương
cổ điển của Trung Hoa, người ta gọi chim Anh vũ là Nam
Việt Điểu南
越 鳥,
sở dĩ gọi như vậy vì Nam Việt là nơi sinh sản của loài
chim này, và vua Nam Việt đã công hiến cho vua nhà Hán.
Nhà thơ Trương
Hỗ đời Đường, trong bài thơ "Anh Vũ", có câu :
Tê tê Nam Việt
điểu
棲
棲 南 越 鳥
Sắc lệ tư trầm
dâm
色
麗 思 沉 淫
Đây cũng là bằng
chứng hùng hồn xác nhận nguồn gốc của loài chim anh vũ.
Ngoài cái tên là
Nam Việt Điểu, chim Anh vũ còn được gọi bằng nhiều mỹ
từ khác nhau, tùy hoàn cảnh, nghe rất đẹp.
-Các tên gọi khác
của anh vũ.
Chữ Hán có nhiều
từ ngữ để chỉ chim Anh Vũ.
a-Tuyết
Y Nữ 雪
衣 女
Theo sách "Minh Hoàng
Tạp Lục 明 皇 雜 錄" thì vào năm Thiên Bảo đời Đường,
tức khoảng năm 742-746 CN, đất Lĩnh Nam có cống cho vua Đường
Minh Hoàng một con chim anh vũ lông trắng. Anh vũ được nuôi
ở trong cung, lâu dần thông hiểu ngôn từ,được Đường
Minh Hoàng và Dương Qúy Phi yêu thích thường gọi một
cách âu yếm và lãng mạng là Tuyết Y Nữ, cô gái mặc áo
tuyết.
Các cung nữ theo
đó cũng gọi là Tuyết Y Nương.
b-Lục
y sứ giả
綠 衣 使 者.
Theo truyền thuyết,
về đời Đường, ở kinh thành Trường An, có nhà phú hào
tên là Dương Sùng Nghĩa, bị vợ là Lưu Thị, âm mưu cùng
với người hàng xóm là Lý Yểm giết.Huyện quan đến nhà
Dương Sùng Nghĩa để tra xét, con chim Anh vũ nuôi trong
nhà họ Dương bỗng nhiên nói là người giết chủ nó là
Lý Yễm, nhờ thế mà vụ án được khám phá.
Đường Minh Hoàng
liền phong cho chim anh vũ là Lục Y Sứ Gỉa.
c-Lũng
khách 隴
客.
Chim anh vũ về
sau sản sinh nhiều ở Lũng Tây, nên còn được gọi một cách
thật văn vẻ là Lũng Khách, người khách đất Lũng Tây, hay
Lũng Cầm, Lũng Điểu.
d-Anh
Ca 鸚
哥
Vì có thân hình
nhỏ bé xinh sắn nên Anh vũ còn được gọi là Anh ca.
3-Cá
Anh vũ gốc ở đâu?
"Cá Anh Vũ",
là thứ cá rất ngon ở miền Bạch Hạc, Bắc Kỳ (poisson mandarin).
Chẳng những thế cá Anh Vũ còn được coi là một thổ sản
của Việt Nam.
Sách "Đại Nam
Nhất Thông Chí
大 南 一 統 志",
một cuốn địa dư của Quốc Sử Qúan triều Nguyễn, ở mục
thổ sản tỉnh Sơn Tây cũng xác nhận rằng :
Cá Anh Vũ(Anh
Vũ ngư) có tên nữa là Gia ngư 嘉
魚,
sản ở ngã ba sông Bạch Hạc, hàng năm cứ đến mùa rét
mới có, vị rất ngon và ôn bổ, từ sông Bạch Hạc trở
xuống thì không có.
Một người bạn
cũng nhắc cho tôi biết rằng, trong cuốn "Thương Nhớ Mười
Hai", nhà văn Vũ Bằng viết về những nỗi thương nhớ
người vợ chiếu chăn bị để lại ngoài Bắc khi ông di cư
vào Nam. Ông kể lại là cứ vào tháng hai, người vợ chiếu
chăn này lại làm món chả cá cho ông ăn, mà phải là loại
cá Anh vũ vào tháng hai ở Việt Tri,thì mới béo.Cũng theo tác
giả, cá Anh vũ ngoài món chả ra, còn có thể nấu cháo ám,
và làm gỏi cũng tuyệt trần (Việt Trì ngày xưa thuộc
tổng Nghĩa An,huyện Bạch Hạc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn
Tây).
Riêng người viết,
khi lớn lên, gặp cảnh đất nước loạn ly, có nhiều chỗ
chưa tùng đặt chân đến, nhà lại bần hàn, nhiều thứ chưa
được nếm thử, nên không được biết thứ cá ở sông Bạch
Hạc này hình thể, mầu sắc như thế nào, và vì sao cá lại
lấy tên chim Anh Vũ mà gọi ? Và tại sao loại cá thổ sản
này của Việt Nam, lại không có những tên gọi nôm na thông
thường như hàng chục tên gọi các thứ cá khác như : Cá
mè, cá rô, cá chép, cá trê,cá riếc, cá chuối, cá bông lau,
cá cháy, cá lòng tong, cá bống v.v.
Hoặc giả, loại
cá này cũng từng có một tên gọi nôm na trước khi mang tên
Anh vũ, nhưng nhờ có đặc trưng nào đó, hiếm quý như Anh
vũ, mà thành tên chăng ?
Trong văn chương
cổ điển Trung Hoa, người ta cũng từng thấy những địa
danh, tên động vật, tên phẩm vật khác có danh xưng là Anh
Vũ. Nào là "Anh vũ châu 鸚
鵡 洲
Bãi Anh vũ", "Anh vũ loa 鸚
鵡 騾 Ốc
Anh vũ", "Anh vũ bôi鸚
鵡 盃 Chén
Anh vũ" v.v ...
-Ốc anh vũ,
tức anh vũ loa 鸚
鵡 螺
Là một loại động
vật nhuyễn thể sống ở biển,sinh sản ở nam Thái Bình Dương,
vỏ có hình xoáy trôn ốc, có thể dùng để chết tạo thành
chén uống rượu,hay những sản phẩm trang sức.
-Chén anh vũ,
tức anh vũ bôi 鸚
鵡 盃.
Chén uống rượu
được chế tạo bằng vỏ ốc anh vũ.Nhà thơ Lạc Tân Vương
đời Đường, trong bài "Đãng tử tòng quân phú" từng có
câu thơ nhắc đến loại chén này :
Phượng
hoàng lâu thượng bãi xuy tiêu
鳳
凰 樓 上 罷 吹 簫
Anh vũ bôi trung
hưu khuyến tửu
鸚
鵡 盃 中 休 勸 酒
-Mầu anh vũ, tức
anh vũ lục鸚
鵡 綠
Ta thường gọi
là mầu xanh lông vẹt.
-Bãi anh vũ,tức
anh vũ châu 鸚
鵡 州.
Cá Anh Vũ, cũng
như ốc Anh Vũ, chén Anh Vũ, bãi Anh Vũ thực ra chỉ là
những danh xưng vay mượn đặc trưng hay sự tích nào đó của
Anh Vũ mà thành tên gọi thôi, hoàn toàn không thuộc loại
vũ trùng được.
Tuy thế, trong những
từ điển lớn của Trung Quốc, như Từ Nguyên, Từ Hải người
viết đã không tìm được cụm từ "Anh Vũ ngư 鸚
鵡 魚"
mà chỉ thấy giải thích cụm từ "Gia Ngư 嘉
魚".
Đó là một thứ cá đẹp và ngon, sinh sống ở Bính Huyệt,
người đất Thục gọi là Chuyết Ngư 拙
魚,
cá này từ những khe đá theo dòng suối mà ra ngoài, con lớn
to chừng năm sáu xích.
Ngoài ra, trong cuốn
Pháp Hán Đại Từ Điển, xuất bản năm 2003, có ghi một loại
cá, tiếng Pháp gọi là poisson perroquet và được dịch ra Hán
ngữ là Anh chuỷ ngư 鸚
嘴 魚.
4-
Anh Vũ châu và xử sĩ Nễ Hành.
Nhắc đến
bãi "Anh vũ ", người yêu thơ Đường tất phải liên tưởng
đến bài thơ trứ danh "Hoàng Hạc Lâu 黃
鶴 樓"
của Thôi Hiệu,trong đó có hai câu :
Tình xuyên
lịch lịch Hán Dương thụ
晴
川 歷 歷 漢 陽 樹
Phương thảo thê
thê Anh Vũ châu
芳
草 萋 萋 鸚 鵡 州
Được nhà thơ Tả
Đà dịch :
Hán Dương
sông tạnh cây bầy
Bãi xa Anh Vũ
xanh dầy cỏ non
Bãi châu này
từng là một thắng cảnh thời Tam Quốc, là nơi tụ
hội uống rượu ngâm thơ của lớp người đạt quan hiển
quý, tao nhân mặc khách, thời bấy giờ. Châu nằm trong sông
Trường Giang, huyện Hán Dương tỉnh Hồ Bắc, nhờ bài "Anh
Vũ phú 鸚
鵡 賦",
một bài phú văn chương trác tuyệt mà thành tên.
Nhưng nói đến
bài phú "Anh Vũ ", cũng không thể không nhắc đến tác giả
của nó là danh sĩ Nễ Hành 祢
衡.
Nễ Hành là người
cuối thời Đông Hán, tự là Chính Bình,người quận Bình
Nguyên, Bàn huyện (nay thuộc phía đông huyện Ninh Tân, tỉnh
Sơn Đông), là một nhà từ phú có tài, nổi tiếng là giỏi
biện luận, nhưng tính tình phóng túng ngạo mạn, lại thích
dùng lời văn khinh bạc để hối nhục bọn quyền quý, nên
mua hoạ vào người. Nễ Hành chỉ chơi thân với hai người
là Khổng Dung và Dương Tu.
Theo sách "Hậu
Hán Thư" của Phạm Diệp thì:
Vào năm đầu Kiến
An đời Hán Hiến Đế (từ năm 196 đến 220), Nễ Hành đến
chơi Hứa Xương, bấy giờ là kinh đô nhà Đông Hán, nơi tập
trung của nhiều bậc danh sĩ đại phu bốn phương, phần lớn
là những người thân của phe của Tào Tháo. Như Tư Không
Duyện Trần Quần, Tư Mã Lương, Thượng Thư Lệnh Tuân Úc,
Đãng Khấu Tướng Quân Triệu Trĩ Trường.
Có người giới
thiệu Nễ Hành nên tiếp xúc, giao thiệp với Trần Quần,
Tư Mã Lương, thì Nễ Hành ngạo mạn trả lời :
-Tớ làm sao có
thể giao du với bọn mổ lợn, bán rượu ấy được !
Còn khuyên Hành
vào bái kiến Tuân Úc, và Triệu Trĩ Trường,thì Hành đáp:
-Úc trông tướng
mạo béo trắng, có thể sai đi điếu tang thì được, còn
Triệu Trĩ Trường bụng phệ là đồ giá áo túi cơm, chỉ
đáng coi nhà bếp và tiếp khách thôi.
Còn khi đề cập
đến hai người tài tử danh sĩ khác là Thiếu Phủ Khổng
Dung và Chủ Bạ Dương Tu, là những người được Hành quý
trọng, coi là bạn, thì Hành cũng chỉ gọi sách mé thằng
"Cu lớn",và thằng "Cu nhỏ" :
-Thằng cu lớn
Khổng Văn Cử là bạn tớ,thằng cu nhỏ Dương Đức
Tổ cũng là bạn tớ. Ngoài ra, toàn bọn xoàng xĩnh cả, chẳng
đáng nói đến làm gì.
Văn Cử là tên
chữ của Khổng Dung, còn Đức Tổ là tên chữ của Dương
Tu.
Đại khái, Hành
có những ngôn từ xấc xược như thế.
(Thằng "Cu lớn
" tức đại nhi 大
兒
và thằng "Cu nhỏ" tức tiểu nhi 小
兒
. Chữ dịch của Tử Vi Lang.
Nguyên văn chữ
Hán,trong Hậu Hán Thư 後
漢 書 của Phạm
Diệp như sau :"大
兒 孔 文 舉,小 兒 揚 德 祖 .余 子 碌 碌 莫 足 數 也 -
Đại nhi Khổng Văn Cử, Tiểu nhi Dương Đức Tổ, dư tử
lục lục mạc túc sổ dã ).
Trước đó, khoảng
niên hiệu Sơ Bình đời Hán Hiến Đế (190 CN-193 CN), Hành
được Khổng Dung tiến cử lên nhà vua và xưng tụng Hành
với nhiều ngôn từ đẹp đẽ. Rồi lại nhiều lần
đề cử tài năng của Hành với Tào Tháo. Tháo tỏ ý muốn
gặp. Nhưng Hành trong bụng vốn khinh ghét Tháo, thác bệnh,
không chịu đến, còn buông lời càn bậy.
Tháo trong lòng
căm giận, nhưng vì Hành có tiếng là bậc tài danh, nên không
muốn giết. Tháo nghe tiếng Hành giỏi đánh trống rất hay.
Tháo muốn làm nhục Hành, bèn sai làm chức "cổ lại 鼓
吏",
một chức quan nhỏ coi việc đánh trống, rồi mở đại tiệc
mời tân khách để thử tài trống của Hành và để mua vui.
Theo lệ, người
đánh trống đều phải thay áo cũ, mặc áo mới. Đến lượt
Hành, Hành đánh xong khúc Ngư Dương, từ tốn khoan thai
đi tới. Dung mạo thái độ không thay đổi. Tiếng trống đánh
nghe rất bi ai thống thiết. Người ngồi nghe, chẳng ai là
không bồi hồi cảm động. Khi Hành đến gần trước mặt
Tháo thì dừng lại.
Bọn quân hầu
của Tháo mắng :
-Cổ lại ! Sao
chưa chịu thay áo mới mà dám cả gan đi tới vậy !
Hành đáp :
-Thay ngay đây.
Bèn tụt ngay cái
quần trước hết. Sau đến các y phục khác, đứng tồng ngồng
một cục. Rồi mới từ từ đội mũ sầm mưu, mặc áo đơn
giảo vào người, cầm dùi lên đánh trống tiếp, xong đi ra.
Sắc mặt không có gì xấu hổ, ngượng ngập.
Tháo chỉ cười,
nói :
-Mình tính làm
nhục hắn, nào ngờ lại bị hắn làm nhục.
Tuy thế, Tháo vẫn
khư khư giữ ý muốn gặp Hành. Hành hứa sẽ đến. Nhân thế,
Khổng Dung mới bảo với Tháo là Hành có cuồng tật, nay đến
xin gặp để tạ lỗi.Tháo mừng lắm, dặn người giữ cửa
hễ có khách thì thông báo ngay, rồi bầy đại yến chờ Hành.
Hành mặc một
chiếc áo đơn, đầu quấn sơ sài một cái khăn, tay cầm một
cây dùi dài ba xích, đến ngồi trước cửa đại doanh của
Tháo, đập dùi xuống đất mà chửi om lên.
Người giữ cửa
vào bẩm với Tháo :
-Bẩm có một tên
cuồng sĩ, ngồi ngoài doanh môn, chửi bới hỗn hào, xin cho
bắt để trị tội.
Tháo lấy làm tức
giận, bảo với Khổng Dung :
-Nễ Hành chỉ
là một thằng nhãi ranh, ta giết dề như giết chuột. Nhưng
hắn vốn có chút hư danh, giết hắn, e xa gần cho ta là không
có bụng dung nạp hắn. Nay ta tống hắn cho Lưu Biểu, xem hắn
ra sao ?
Rồi sai người
cưỡi ngựa, ép Hành phải đi.
Lúc Hành sắp lên
đường, những thuộc hạ của Tháo mở tiệc tiễn đưa ở
ngoài tổ đạo, bầy biện sẵn ở ngoài cửa phía nam để
chờ, và dặn bảo nhau :
-Hành thường ăn
nói hỗn xược vô lễ, nay nhân lúc hắn đến, ta nên "ghè"
cho hắn một trận !
Khi Hành đến,
tất cả đều lặng thinh, chẳng ai muốn nói chuyện với Hành.
Hành ngồi xuống, khóc rống lên. Mọi người mới hỏi nguyên
do tại sao lại khóc, thì Hành đáp :
-Thằng ngồi thì
như cái mả.Thằng nằm thì như thây ma. Đứng giữa đám mồ
mả và thây ma thế này, hỏi không khóc sao được ?
Sau này, sự tích
Nễ Hành cởi truồng chửi Tào Tháo, được La Quán Trung, người
đời Nguyên tiểu thuyết hoá, mô tả trong "Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa" với những lời đối đáp rất linh hoạt, hấp dẫn
người đọc hơn trong Hậu Hán Thư của Phạm Việp viết bằng
lối văn chép sử.
Người viết cũng
xin được tóm lược ra đây một giai thoại khá lý thú
trong những giai thoại thời Tam Quốc là "Loã Y Mạ Tào 裸
衣 罵 曹"
.
"Nễ Hành vì cự
tuyệt Tào Tháo chiêu thỉnh, chê văn võ thủ hạ của Tháo
là loại bình dong vô năng, khiến cho Tào Tháo tức giận, phạt
bắt phải đánh trống trước yến tiệc để làm
nhục.
Bọn quân hầu
của Tháo bảo Hành :
-Đánh trống thì
phải mặc áo mới!
Nhưng Hành
lại cố ý mặc áo rách cũ. Bọn thủ hạ của Tháo lại hỏi
:
-Sao không thay áo
mới ?
Hành lập tức
trước bàn tiệc, tụt bỏ hết quần áo ra, đứng lõa thể
tồng ngồng.
Tháo mắng là vô
lễ.
Hành phản đối,
nói :
-Lừa vua dối chúa
mới là vô lễ. Còn ta để lộ cái hình hài của cha mẹ là
để cho thấy sự trong sạch của thân thể !
Tháo cảm thấy
lời lẽ của Hành có vẻ gai ngạnh châm chích, bèn hỏi :
-Vậy ngươi nói
ai là kẻ ô trọc, dơ bẩn !
Hành trào lộng,
chửi Tháo :
-Mày không biết
kẻ tài người ngu, thế là mắt mầy bẩn. Không đọc Thi,
Thư, thế là miệng mày bẩn. Không nghe lời trung, thế là
tai bẩn.Không hiểu cổ kim,thế là thân bẩn. Không dung nạp
chư hầu thế là bụng bẩn. Lòng thường mang chí soán đoạt,
thế là tâm bẩn.
Tháo cay lắm, nhưng
lại sợ mang tiếng ác là hại người hiền, bèn đầy Hành
đến Kinh Châu để nhờ tay người khác giết.
Bấy giờ Châu
Mục Kinh Châu là Lưu Biểu, không muốn dùng Hành, bèn đem
Hành tặng cho Thái Thú Giang Hạ là Hoàng Tổ. Nhưng Tổ là
người bình dong vô năng, từng bị Tôn Kiên, Tôn Quyền đánh
bại nhiều trận thất điên bát đảo, trong bụng thường
không có ý dung nạp Nễ Hành, và thường tìm cách tống khứ
Hành đi nơi khác. Nhưng vì Hành là bạn thân của con Tổ là
Hoàng Xạ.
Một hôm, Tổ mở
yến tiệc đãi tân khách. Khách tất cả đều là lớp người
quan chức hiển quý, Tổ cố ý xếp cho Hành ngồi vào một
xó tối, mỗi lần đem rượu mời khách, Tổ đều đi vòng
qua chỗ ngồi của Hành, để cho Hành bị mất mặt, nhưng
Hành vẫn thản nhiên tự như ngồi yên.
Bấy giờ có một
vị tân khách, đem tặng cho Tổ một con chim Anh vũ, và nói
:
-Gía như trong tiệc
này, ai có thể làm bài phú về con chim này để trợ hứng
rượu cho mọi người nhỉ !
Khách tuy là những
kẻ hiển quý, nhưng tài nghệ văn chương đều xoàng, nên
chẳng ai dám lên tiềng trả lời. Hoàng Tổ bèn nhân cơ hội
nói kháy Nễ Hành :
-Ở đây có bậc
cao tài, há không thể làm được bài phú ngay tại bàn tiệc
hay sao !
Hành nghe Tổ nói
thế một phần trong bụng có vẻ không bằng lòng, một phần
muốn nhân cơ hội hạ Hoàng Tổ, bèn lên tiếng:
-Việc này có gì
khó đâu ?
Rồi đứng dậy
trải giấy, cầm bút, viết một hơi thành bài "Anh Vũ phú",
mọi người xúm lại đọc, thấy quả nhiên là một áng văn
chương trác tuyệt, chữ chữ là những hàng châu ngọc long
lanh. Nhưng nếu đọc đi đọc lại sẽ nhận ra chỗ ngang ngang,
bất thường, bài phú hàm chứa đựng những ý châm chọc
khoét tội Hoàng Tổ.
Hoàng Tổ chưa
từng bị người nào dám hối nhục mình trước mặt đông
đảo mọi người như thế, nhất thời không giữ nổi bình
tĩnh, cơn giận bộc phát, bèn hạ lệnh đem Hành ra chém ở
bãi đất bồi, huyện Hán Dương.
Hành chết, năm
đó mới có hai mươi sáu tuổi. Tác phẩm đại biểu của
Nễ Hành ngoài bài "Anh Vũ phú", là một bài phú ưu tú thời
Hán mạt, được người đời ngâm vịnh lưu truyền, Nễ Hành
còn có hai tập là "Tùy Thư Kinh Tịch Chí" và "Nễ Hành tập",
nhưng nay đều thất truyền cả.
Hậu thế thương
tiếc Nễ Hành là người tài hoa, nhân vì làm bài "Anh Vũ phú"
mà bị chết, mới đặt tên bãi đất bồi đó là "Anh Vũ
châu". Và danh xưng của bãi đất bồi này cũng nhờ đó được
lưu truyền thiên cổ.
Riêng Hoàng Tổ
giết xong Nễ Hành, có ý hối hận, dùng hậu lễ chôn cất
Nễ Hành, trên bãi Anh Vũ châu đó. Sau bãi châu này bị nước
vùi mất vào cuối thời Minh mạt, ngôi mộ thật của Nễ
Hành cũng bị mất theo. Đến năm Quang Tự nhị thập lục
niên,tức năm 1900,người ta cho lập lại mộ của Nễ Hành,
làm bằng đá và có hình vuông. Trước mộ có tấm bia khắc
mấy chữ:
"Hán xử sĩ Nễ
Hành mộ 漢
處 士 祢 衡 墓"
Bài viết này không
có tính cách của một bài nghiên cứu, chỉ là truyện
cà kê dê ngỗng, viết để mua vui bạn bè và tự mua
vui cho mình, trong cảnh chiều tà bóng lẻ, bằng hữu một
thời từng ước mơ được làm người "học sinh là người
tổ quốc mong cho mai sau", nay đã trở thành những "ông bình
vôi" sần sùi, và đang thưa thớt dần, còn lại mình ai cô
đơn trên đất khách bên ngọn đèn lạnh lẽo, khác nào như
hai câu thơ cổ cuả nhà thơ Mã Đái đời Đường :
Lạc diệp
tha hương thụ
落
葉 他 鄉 樹
Hàn đăng độc
dạ nhân
寒
燈 獨 夜 人
Do đó, không thể
tránh khỏi những điều bất cập và thiếu sót.
Cũng xin được
dãi bầy phân tỏ và mong các bậc cao minh rộng tình lượng
thứ.
_________________________________________________________________________ |