Không,
không gì cả / Tôi không hối tiếc gì cả / Ngay điều tốt
hay xấu thiên hạ làm cho tôi, mặc kệ hết /... / Đã trả
xong, đã phủi sạch, đã quên rồi / Tôi cóc cần quá khứ
/ Với các kỷ niệm / Tôi châm lửa / Mọi nỗi đau, niềm
vui / Không cần chúng nữa / Phủi sạch tình nhân / Với giọng
rù quyến của họ / Vĩnh viễn quét sạch / Tôi bắt đầu
lại từ số không...
Giữa tháng 2-2007,
phim La Môme về cuộc đời nữ ca sĩ ngoại hạng Edith
Piaf của đạo diễn Olivier Dahan ra mắt khán giả khắp nước
Pháp. Phê bình của báo chí và khán giả cho điểm 4 sao. Qua
sự diễn xuất tài tình của nữ tài tử điện ảnh Marion
Cotillard cao 1m75, bỗng dưng Edith Piaf chỉ cao 1m47 lừng lững
bước ra khỏi mộ, đau đớn trữ tình, và cả nước Pháp
rưng rưng nghe lại giọng ca duy nhất trong lịch sử nhạc Pháp.
Điện thư chuyển cho nhau hình ảnh và tiểu sử Piaf kèm bản
nhạc Non Je Ne Regrette Rien (Không, tôi không hối tiếc
gì cả) mà Piaf đã hát với tất cả sinh lực của con tim
suốt đời chấn thương đa cảm. Tiếp đó kênh Arte chiếu
phim tài liệu đời Piaf hai bữa liên tiếp ngày 3- 4 tháng 3
khiến người ái mộ chợt giật mình: giữa bao bận bịu cơm
áo hằng ngày với chuyện dao búa chết chóc cơm bữa còn
có bóng hình Piaf vỗ về, ru mình vào giấc mơ êm ái dù chốc
lát. Con số bán sách về Piaf và nhạc vượt lên, làm người
ta nhớ lại buổi trình diễn mang tên "Piaf je t'aime" (Piaf
tôi yêu cô) hiến cho đời bà, năm 1996, cũng mang kết quả
tương tự.
Mặc dầu theo khai
sinh, Piaf chào đời ở bịnh viện Tenon, quận 20 Paris ngày
19 tháng 12 năm 1915 dưới tên Edith Gassion, truyền thuyết lại
muốn bà sinh ra dưới ngọn đèn đường ở Belleville cùng
quận, nơi tụ tập của các tay anh chị, dưới mắt một viên
cảnh sát đi tuần! Dù cất tiếng khóc đầu đời nơi nào,
Edith lớn lên cất tiếng hát khắp thế giới và được thiên
hạ yêu quá đến gần như ghét: một con chim sẻ 1m47 mà vĩ
đại đến nỗi khiến các chim đến sau trở thành nhỏ bé.
Không thể tìm ra người kế vị. Bởi không những chỉ
là
Piaf, mà còn cùng thời nước Pháp đã sinh sản những đứa
con đem vinh quang cho tổ quốc: Sartre, Cocteau, Chagall... Piaf là
nước Pháp, không cần làm marketing, không cần phô trương,
chỉ với đam mê và tài năng thực sự...
Bố sống bằng nghề
làm xiếc ngoài đường, mẹ người Algérie hát dạo chẳng
quan tâm gì đến con nên Piaf được gửi gấm cho bà ngoại.
Hai năm sau nhập ngũ, bố gửi Piaf cho bà nội ở Normandie,
vùng bắc nước Pháp, là tú bà. Tại lầu xanh, con bé ngày
ngày nhìn thấy những tấm lưng trần của các ông chộp hôn
gái làng chơi trong hành lang chật hẹp. Có dạo nó bị đau
mắt suýt mù. Dầu vậy Piaf được sống mấy năm êm ả trong
tình thương của các cô gái, hơn là tình thương của bà nội.
Sau chiến tranh bố trở về đem đi sống nay đây mai đó bằng
nghề nhào lộn ngoài đường. Để giúp bố, nó hát, và kiếm
tiền nhiều hơn trò xiếc sơ đẳng của bố. Từ từ, nó
nhận ra giọng đặc biệt của mình rồi đến năm 15 tuổi
từ giã bố để bay nhảy với đôi cánh riêng nhỏ bé.
Cô chọn khu Belleville
và Pigale hát dạo, cô bạn thân Momone đứng lấy tiền. Nếu
Piaf lấy tiền thì ra vẻ người hát ăn xin, trong khi người
khác lấy tiền thì Piaf là nghệ sĩ. Năm 17 tuổi Piaf gặp
người đàn ông đầu tiên trong đời, năm sau sinh đứa con
gái để rồi 2 năm sau nữa khóc con, viêm màng não. Người
đàn ông bỏ đi. Hai mươi tuổi, hầu như mồ côi, Piaf bên
bờ vực nghèo đói, sa sút tinh thần, nghiện ngập và suýt
làm điếm. Khu vực thường la cà hát kiếm tiền không phải
khu tốt, là chỗ của các tay anh chị với đủ kiểu làm ăn.
Rồi định mệnh khiến một chiều năm 1935 Louis Leplée, chủ
phòng trà ca nhạc Gerny's đi ngang, sững sờ trước giọng
ca độc đáo, ông muốn thâu dụng cô. Gerny's là phòng trà
sang trọng nằm trên Champs Elysée, được mệnh danh đại lộ
đẹp nhất thế giới. Chính Leplée đã đặt tên Môme Piaf
cho cô. Môme, tiếng gọi thân mật con bé, thằng bé,
Piaf
là tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ, hạp với thân hình mỏng
manh. Giọng mạnh, khàn, rung rền, bình dân, đầy kịch tính
rất hạp với nhạc Pháp, đã chinh phục ngay khách của Leplée.
Chỉ trong một tuần lễ, cả Paris đổ dồn về Gerny's và
Piaf được xem là một khám phá tuyệt diệu trong năm. Và dù
ông cố tạo cho Piaf môi trường sinh hoạt tốt, cô vẫn không
từ bỏ thói quen chạy về Belleville và Pigale gặp gỡ đùa
nghịch với bạn bè, phần đông là dân anh chị. Bản tính
Piaf hồn nhiên ưa cười nói chọc phá với cá tính cực kỳ
mạnh mẽ ngang tàng, một con người hoang đàng rộng lượng
hết mình, không thể khép vào khuôn khổ.
Không may, tháng
2 năm 1936 Leplée giúp cô thâu đĩa 78 vòng thì tháng 4 ông bị
ám sát tại tư gia. Vì không thường giao dịch với giới sang
trọng này nên Piaf bị điều tra rắc rối và báo chí nghiêm
khắc khai thác tối đa, bởi vì những người nhúng tay vào
việc ám sát là dân tứ chiếng khu Belleville-Pigale giống
đám anh chị "bảo trợ" Piaf . Người ta tẩy chay cô vì nghi
chính cô hướng dẫn cuộc ám sát này. Vụ án chẳng
bao giờ được làm sáng tỏ. Nhưng chẳng bao lâu, nhờ Raymond
Asso, kẻ phiêu lưu và là cựu lính lê dương, rất yêu Piaf
và hiểu rõ ưu khuyết điểm của nhân vật duyên dáng bất
trị, đã giúp cô trở thành tài năng mà sau này chúng ta được
biết. Từ đây con chim sẻ không được phép bay về tổ
cũ đầy rác rưởi nữa, cũng không muốn hát sao thì hát.
Chính Asso với sự phụ hoạ kiên nhẫn của nữ nhạc sĩ dương
cầm Marguerite Monnot, đã luyện tập cho Piaf cách phát âm, cách
diễn xuất, ngay cả cách ăn mặc lên sân khấu. Với Asso,
Piaf phải làm việc, làm việc và làm việc. Và việc làm được
thù lao xứng đáng. (Để diễn xuất gần hệt Piaf mà
không có vidéo Piaf hát các bản nhạc trong phim, Marion phải
làm việc nhiều đêm tìm điệu bộ diễn xuất, cách di chuyển
thân hình và lưỡi, cách ngắt hơi ... Và vì không dễ sống
trong vai thần tượng độc đáo một cách trọn vẹn, Marion
đã mất rất nhiều thời gian để nhập vào và bước ra khỏi
Piaf).
Năm 1937, Môme
Piaf vĩnh viễn trở thành Edith Piaf, lúc này cô 23
tuổi, thành công rực rỡ trên đường ca nhạc và đóng phim
đầu tiên "La Garçonne" (Cô gái phóng túng). Họ là tình
nhân của nhau đến khi Asso nhập ngũ. Ba năm sau Piaf gặp
kịch sĩ Paul Meurisse trong giới trưởng giả cốt cách, một
người lịch lãm dè dặt khác với một Piaf sôi nổi bộc
tuệch. Trong hai năm tình nghĩa, chính Paul đã dạy cô cách
cư xử trong xã hội thượng lưu. Viện sĩ Jean Cocteau (thi,
văn, hoạ sĩ...) đã viết một vở kịch riêng cho họ, diễn
cảnh đời vợ chồng, vai đàn ông trầm lặng điềm tĩnh
khó lay chuyển. Với vở này, người ta chợt khám phá tài
năng phi thường của Piaf trong kịch nghệ. Và họ đóng chung
phim "Montmartre sur Scène" (Montmartre trên sân khấu). Thời
này Piaf là người được ưa chuộng của giới trí thức Paris
và hoàn toàn có bản lĩnh làm chủ nghệ thuật và con người
mình. Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, đêm đêm con
chim sẻ vẫn cất giọng vàng, chinh phục không những con tim
dân sang trọng Paris mà cả con tim thế giới và đạt được
vinh quang tức khắc. Trong khi Pháp bị Đức chiếm đóng, dân
Paris quan niệm "phải học ngôn ngữ của kẻ thù" và bí mật
kháng chiến, Piaf vẫn hát không ngừng trong các vùng tự do,
cho cả dân bị trị và dân cai trị . Người ta trách Piaf nhất
là đã qua hát tận Bá Linh theo lời mời của Đức khiến
sau khi Paris được giải phóng, Piaf bị rất nhiều phiền phức.
Vào khoảng 30 tuổi,
dày kinh nghiệm và không biết mùi thất bại, Piaf giúp đỡ
những người cô cho là xứng đáng. Vì vậy khi gặp Yves
Montand cuối hè 1944, không những Piaf bị tiếng sét ái tình
mà còn lo cho sự nghiệp của Yves, từ tiết mục các bản
nhạc đến tủ quần áo. Và năm sau họ cùng xuất hiện chung
trong phim Etoile sans lumière (Sao không ánh sáng). (Về
sau này tả trước công chúng về buổi gặp gỡ Piaf đầu
tiên, Yves nói đã bị choáng ngợp bởi lòng ngưỡng mộ tuyệt
đối trước một Piaf trẻ đẹp tài hoa. Và khi xa nhau, chính
Yves là người đau khổ). Cho Yves, Piaf viết bài La Vie En
Rose (Đời màu hồng), một trong những bản nhạc của mọi
thời đại đã bay khắp thế giới. Hai năm sau, Piaf có dịp
quen biết nhóm ca sĩ trẻ Compagnon de la chanson (Bạn ca
hát) và cũng như với Yves Montand, Piaf tự thấy có trách nhiệm
lo cho sự nghiệp họ và đề nghị thâu chung Les Trois Cloches
(Ba quả chuông), kết quả sét đánh, bán cả triệu đĩa. Piaf
quyết định dẫn họ cùng qua Mỹ trong vòng trình diễn đầu
tiên của cô vào năm 1947.
Chuyến viễn du
qua bên kia Đại Tây Dương là một thách thức thực sự cho
đứa con của Belleville. Những buổi trình diễn đầu tiên
trong các phòng trà ca nhạc Nữu ước không lôi kéo được
sự quan tâm của dân Mỹ chút nào bởi họ chẳng hiểu biết
gì về nhân vật Piaf. Nhưng tình cờ đọc được bài phê
bình cực kỳ khả quan trên một tờ báo lớn ở đây, Piaf
quyết định ở lại dù ngày trở về Âu Châu đã định.
Cô ký hợp đồng hát 1 tuần cho Café Versailles, phòng
trà rất chọn lọc ở Manhattan. Thành công rực rỡ. Thay vì
về Âu châu, cô ở lại Nữu ước 4 tháng, và các năm sau
thường quay lại chốn này.
Chuyến đi lịch sử
trên đã vô tình thay đổi đời Piaf bởi 2 cuộc gặp gỡ
quan trọng. Một với Marlène Dietrich, nữ ca kịch sĩ, họ trở
thành bạn thân và giữ liên lạc với nhau đến ngày Piaf chết.
Chính Marlène dạy Piaf tiếng Anh và rất nhanh, Piaf đã có thể
nói và hát thứ tiếng ngoại quốc này. Và nhất là, hai, Piaf
yêu điên cuồng vô địch thế giới đánh bốc Marcel Cerdan,
cũng người Pháp đang ở Nữu ước, mà cô đã gặp lần đầu
tiên ở Paris trong phòng trà rất thời thượng
Club des Cinq
(Câu
lạc bộ 5 người). Lần đó chỉ là cái bắt tay, không tiếng
sét, không tiếng lòng. Rồi mỗi người một nghiệp bay đi
chinh phục Mỹ châu với đôi cánh thiên thần của mình. Và
định mệnh cho họ gặp lại nhau trong thành phố Nữu ước
rộn ràng để yêu nhau cuồng nhiệt. Cô ca sĩ mảnh khảnh
với giọng ca vang dội tiếng chuông đồng và anh lực sĩ to
như gấu với tiếng cười dòn dã sảng khoái có vợ bốn
con được mệnh danh "Vua đánh bốc, hoàng hậu ca sĩ ", làm
tổn hao bao nhiêu giấy mực và được xem là mối tình lãng
mạn danh tiếng nhất thế kỷ. Cả hai đều nổi tiếng thế
giới nhưng khác ngành nhau một trời vực. Trong 2 năm, Piaf
và Cerdan sống với nỗi đam mê không ai sánh kịp. Họ như
mọi người, yêu nhau như mọi người, nhưng khác hẳn mọi
người. Với Marguerite Monnot, Piaf viết
L'hymne à l’amour
(Thánh ca tình yêu) cho anh, một trong những bài nổi tiếng
nhất và được hát nhiều nhất. Người ta còn giữ lại hình
ảnh Piaf nhỏ bé với chiếc áo đen ngập tràn ánh đèn sân
khấu đang diễn tả mối tình vĩ đại đời mình.
Nhưng cái chết
bất ngờ của Cerdan tối 27 rạng ngày 28-10-1949 trên chuyến
bay Paris-Nữu ước đã biến câu chuyện tình tuyệt vời thành
thảm kịch. Muốn được gặp nhau càng sớm càng tốt, Piaf
điện thoại bảo Marcel hãy lấy máy bay thay vì tàu thủy,
bởi vì cuộc hành trình kéo dài lâu quá sẽ giết cô chết
mất, trong khi cô mỏi mòn ngóng đợi từng giây. Cho đến
lúc đó, hàng không Constellation chưa hề có vấn đề. Nhưng
chuyến bay mang Marcel Cerdan đến cho Piaf đã bị nạn trên
không phận Açore lãnh thổ Bồ Đào Nha. Sáng ngày 28 tháng
10 thức dậy nhận hung tin, Piaf không tin, mở cửa từng phòng
tìm kiếm vì rõ ràng anh vừa về, cô mới pha cho anh ly cà
phê hãy còn nóng hổi trên giường. (Chỗ này trên màn ảnh
không còn âm thanh, chỉ một Piaf gào Marcel, Marcel, Marcel...
và như không biết phải làm gì, những ngón tay rất đẹp
co duỗi quýnh quáng. Cánh cửa cuối cùng cô mở dẫn thẳng
ra sân khấu, khán giả đang im lặng chờ đợi, ánh sáng rực
rỡ trước mặt, khán giả xem phim chỉ thấy phần lưng mỏng
manh, tối đen...). Thực tế ngoài đời, đêm ấy Piaf có chương
trình trình diễn. Khóc suốt ngày rồi ban đêm, một Piaf nghị
lực phi thường ra sân khấu. Nhưng hát đến bài thứ 6 thì
Piaf bật khóc ngất xíu. Đó là bài Le chant d’amour (Ca
khúc tình yêu) Nếu bạn muốn nghe/ Tôi sẽ hát một tình
khúc/ Một tình khúc thật tầm thường / Cho đôi tình nhân
yêu nhau / Nếu bạn để tôi kể / Chuyện tình đẹp như mơ
/ Vậy hãy để tôi hát... Cái tang này đã khiến Piaf
triền miên suy sụp tinh thần cho đến mãn đời, không vươn
lên nổi. Vốn bản tính hay tin “thế giới bên kia", Piaf
lao vào những trò thần bí ngay cả thuyết thông linh, thường
tới lui các ông bà "thầy" chỉ để nghe họ lặp đi lặp
lại từng đó chuyện chẳng đâu vào đâu nhưng có thể giúp
an lòng Piaf. Cả tuần không ăn uống, Piaf chỉ muốn một điều
duy nhất: Marcel của cô trở lại. Cô bạn thuở hát dạo Momone
phải học cách làm cái bàn di chuyển, và khuyên Piaf ăn uống.
Tin đó là lời Marcel sai khiến, Piaf chịu ăn, đến nghẹn
cổ mới thôi.
Dầu vậy cô vẫn
không ngừng làm việc và trình diễn với một ý chí siêu
phàm. Lúc này tài tử kiêm nhạc sĩ trẻ Charles Aznavour (hiện
còn sống, rất được dân Tây cưng, gọi là
Petit Charles-Charles
bé, để phân biệt với Tổng thống Charles De Gaules là
Grand
Charles-Charles lớn) trở thành kẻ đồng hành đặc biệt:
thư ký riêng, tài xế, bạn tâm sự... Và đây là người
duy nhất có liên hệ chặt chẽ thân thiện với Piaf mà không
phải tình nhân. Từ lâu Piaf đã giúp Charles hoàn chỉnh khi
lên sân khấu, nhưng không chủ động lèo lái như đối với
Yves Montand hay nhóm Bạn Ca Hát, mặc dù Charles đã viết cho
cô nhiều bản nhạc rất thành công.
Năm 1951 Piaf cặp
với Eddie Constantine, ca sĩ diễn viên trẻ người Mỹ gốc
Hy lạp. Cùng diễn vở nhạc kịch "La p’tite Lili" (Con
bé Lili), áp phích kéo dài 7 tháng chưa kịp tháo xuống thì
họ đã chia tay. Năm ấy Piaf bị 2 tai nạn xe hơi, lần thứ
2 suýt chết phải nằm liệt giường rất lâu và chích mọc
phin. Thêm với rượu, mọc phin đóng vai trò tàn hại sức
lực Piaf vốn đã mong manh.
Rồi duyên nợ dẫn
Piaf gặp và làm đám cưới với ca nhạc sĩ nổi tiếng Jacques
Pills năm 1952. Họ ở trong căn hộ ở Paris mà Piaf giữ cho
đến ngày nhắm mắt. Trong giai đoạn này Piaf theo nhiều đợt
giải độc. Dù bị rượu và mọc phin tàn phá, thời gian này
Piaf lên tuyệt đỉnh vinh quang nghệ thuật, đĩa thâu hay các
buổi trình diễn đều thành công ngoại hạng. Giới thân cận
che giấu báo chí tình trạng sức khoẻ của Piaf, cô ẩn dật
nhiều tháng trời trong 2 năm tiếp đó, giữa các chuyến viễn
du Nữu ước-Mễ Tây Cơ-Rio-Paris. Đi để khuây khoả hình
ảnh con ma Marcel không bao giờ rời. Đi để quên những ngày
hạnh phúc trong 2 năm, quá dài và quá ngắn. Đi để bàng hoàng
nhận ra rằng trong mọi vòng tay đàn ông, không vòng tay nào
vững chải mạnh mẽ và êm ái như vòng tay người đanh bốc.
Chỉ đến năm 1955 khi biết sẽ hát ở
Olympia, phòng
trình diễn tầm cỡ tiếng tăm nhất Paris, Piaf hoan hỉ tìm
lại sinh lực làm việc mặc dù sức khoẻ hết sức tàn tạ.
Và vinh quang rực rỡ với giọng mạnh mẽ truyền cảm làm
rối loạn lòng người, trước khán thính giả chọn lọc sành
điệu thủ đô. Nơi đây Piaf có dịp trở lại nhiều lần.
Rồi Piaf lại dọc ngang nước Mỹ với chương trình rất nặng.
Cuối cùng chấm dứt tại Nữu ước vào đầu năm 1956 với
buổi trình diễn 22 bài tại thính phòng
Carnegie Hall,
10.000 vé bán ra, là ca sĩ tạp diễn đầu tiên hát tại "miếu
đền" nhạc cổ điển này. Thành công tột đỉnh. Piaf thực
sự nghiễm nhiên bước vào danh sách ngôi sao quốc tế. Con
đường thênh thang.
Nhưng nếu đường
sự nghiệp suông sẻ rực rỡ bao nhiêu thì đường tình duyên
truân chuyên khập khiễng bấy nhiêu: năm 1956 Piaf ly hôn với
Jacques Pills. Sở thích của Piaf là nắm vận mạng đàn ông,
dạy
dỗ rồi biến họ thành ngôi sao nghệ thuật. Ca nhạc sĩ
Georges Moustaki cùng Marguerite Monnot viết cho Piaf ca khúc "Milord"
nằm trong danh sách những bài hát thành công nhất của cô,
cũng không thoát khỏi luật lệ này. Cả hai đều cá tính
độc đáo mạnh mẽ nên thành tình nhân, họ sống những ngày
nhộn nhịp náo động và cùng bị tai nạn xe hơi thập tử
nhất sinh mùa thu 1958, bị gãy 3 xương sườn, làm giảm thiểu
sức khoẻ vốn đã bệ rạc của Piaf. (Đoạn này màn ảnh
tối đen, âm thanh chỉ còn tiếng mưa tầm tã. Bỗng tiếng
va chạm chát chúa của sắt thép, tiếng kính bể sắc sảo
loảng xoảng... Không một tiếng kêu của người bị nạn).
Đầu năm sau đang trên đỉnh vinh quang ở Nữu ước, Piaf xỉu
trên sân khấu phải đưa vào bịnh viện mổ cấp cứu. Piaf
trở về Paris trong tình trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi.
Piaf sống vật vờ, yếu lả, bịnh hoạn...
Cho đến một ngày
nhạc sĩ trẻ Charles Dumont đem bản "Non je ne regrette rien"
đến, mới chỉ hát trình diễn vài câu, Piaf bảo ngừng "Tôi
sẽ hát bài này. Đó là đời tôi". Và mấy tháng sau, đầu
năm 1961, mặc dầu sức khoẻ tồi tệ vì thuốc men và các
lần mổ xẻ, Piaf không nghe lời ngăn cản của bác sĩ và
người thân cận, vẫn giữ lời hứa với người bạn giám
đốc Olympia, hát để cứu phòng trình diễn đang trên đường
khánh tận. Và thắng lợi rực rỡ với giọng ca vượt thời
gian không ai sánh nổi, đã rút hết gan ruột diễn tả nỗi
lòng mình, để nói mình không có gì hối tiếc. Một Piaf đau
đớn kiêu hãnh phân trần, đang tự nhủ chính mình và hứa
hẹn với mọi người... Cả nước Pháp xúc động. (Ai
cũng thích bài hát này, nhưng xem phim mới thấy thấm thía
Piaf trình diễn trong tâm trạng thế nào. Khán giả trên màn
hình há hốc, sững sốt, bị thôi miên. Khán giả trong rạp
xi nê lặng lẽ chặm mắt. Hai loại khán giả cùng một nỗi
niềm: xúc động cực độ và thương cảm vô cùng người
đàn bà bé nhỏ có cuộc đời nổi chìm ngoại hạng).
Mùa hè 1961, Piaf gặp
và yêu người đàn ông cuối cùng trong đời, cũng là người
cuối cùng Piaf lăng xê: ca sĩ Theophanis Lamboukas gốc Hy lạp
mà Piaf gọi thân mật Sarapo. Tháng 6 Piaf nhận giải đĩa hát
của l’Académie Charles Cros (Viện Hàn Lâm Charles Cros)
cho toàn bộ sự nghiệp. Cuối năm, nữ nhạc sĩ dương cầm
Marguerite Monnot tạ thế, Piaf mất thêm một người thân.
Tháng 9-1962, Piaf hát lần cuối ở Olympia với chương trình
chỉ gồm những bản nhạc tâm tình và ngày 25 từ trên cao
tháp Eiffel, Piaf hát cho phim Le Jour Le Plus Long (Ngày dài
nhất) lần chiếu ra mắt đầu tiên, bên dưới hầu hết là
tài tử ngẩng đầu nhìn lên. Đêm đó, Piaf hát cho cả Paris
phủ phục dưới chân mình.
Đầu tháng 10, Piaf
làm đám cưới với Sarapo. Tháng 2-1963 họ cùng trình diễn
bài A quoi ça sert l’amour? (Tình yêu ích gì?). Chẳng
ích gì vì quá trễ rồi: 2 tháng sau Piaf rơi vào tình trạng
hôn mê. Mỗi khi chợt tỉnh giữa hai lần hôn mê nhìn thấy
Sarapo chăm sóc bên giừờng bịnh, Piaf nói chẳng khác nào
con trai săn sóc mẹ già, vì Piaf lớn hơn những 20 tuổi.
Vậy thì tình yêu ít nhất cũng có ích vào chuyện chăm sóc
nhau những lúc cuối đời.
Vĩnh biệt ngày
10-10-1963, thi hài Piaf được kín đáo mang về Paris và công
bố ngày 11, cùng ngày với bạn thân Jean Cocteau. Hai người
rất yêu quý nhau nên thiên hạ gọi "vợ chồng trong cái
chết". Bà được an táng tại nghĩa trang Père La Chaise với
cả Paris đưa tiễn. Trong 2 ngày, từng hàng dài người ái
mộ đến phúng điếu. Họ tha thứ cho cuộc đời không lấy
gì gương mẫu của bà và giữ lại cái tài vô hạn với lòng
tôn kính biết ơn "con bé ngoài đường". Người ta tự
hỏi không biết nếu nhạc sĩ Charles Dumont soạn bản
Non
je ne regrette rien sớm hơn vài năm, có thể cứu giúp Piaf
khá hơn không? Piaf viết lời (có khi cả nhạc) cho khoảng
80 bản nhạc, đóng nhiều phim và kịch.
Trong đống giấy
tờ, người ta tìm thấy lá thư lạ lùng như sau không bao giờ
gửi:
"Tôi không sợ
chết. Tôi không bao giờ thất vọng vì tình. Các tình nhân
đã mang lại cho tôi kinh nghiệm quý báu. Tôi không hối tiếc
về những gì đã làm, về những gì đã biết, và nếu phải
làm lại thì tôi cũng sẽ bắt đầu như vậy. Xin tạ ơn trời
đã cho tôi cuộc đời cùng khả năng sống này, bởi vì tôi
đã sống trọn vẹn một trăm phần trăm và không có gì tiếc
rẻ".
Cho mãi đến giờ,
trên mộ Piaf luôn luôn đầy hoa tươi của khách thập phương,
bởi Piaf đã đi vào huyền thoại và không thể bước ra. Bà
là đứa con cưng trong khi chết cũng như trong lúc sống. Cuộc
đời bà có nhiều đoạn hư hư thực thực bởi chính bà,
với bản lĩnh mạnh mẽ bướng bỉnh cũng vô tình tạo thêm
huyền tạp bất thường. Đối với dân Pháp, Piaf không chết,
chỉ đi lưu diễn đâu đó ít lâu rồi lại trở về, lộng
lẫy giàu có hơn vì thêm đàn con cháu mới.
Người ta có thể
thăm bà mỗi ngày tại bảo tàng Edith Piaf (đường Crespin du
Gast, quận 11 Paris) viện bảo tàng dành cho bà. Và tại quãng
trường Edith Piaf cách bịnh viện Tenon mấy thước, nơi La
Môme chào đời, ngày 11-10-2003 kỷ niệm 40 năm Piaf mất,
thị trưởng Paris đã khánh thành dựng bức tượng
đứa
con của đường sá.
Xuân
Sương
Paris,
Mars 2007
RFI Musique
Wikipédia
Piaf-Cerdan, un hymne
à l’amour : 1946-1949 / Patrick Mahé và Dominique Grimault.- Robert
Laffon , 2007. |