Chưa
đến ngày nguyên tiêu, mưa xuân đầu mùa mới lất phất bay,
mà thị xã Phú Thọ đã tấp nập không khí làm ăn. Từ
người buôn thúng bán mẹt, đến anh xe đạp thồ, từ người
đi xe máy đến những chiếc ô-tô bịt kín và có lẽ cả
những chiếc máy bay đang vè vè trên trời kia, thảy đều
một cái đà vun vút, khẩn trương, vội vã theo vòng xoáy
của thời cơ chế thị trường. Nhưng chỉ cần vượt qua
sông, đoạn bến phà Ngọc Tháp (cũ) sang bên kia Tam Nông, đến
với những xóm làng cổ thì mùa xuân như thể mới thực sự
bắt đầu trong tiếng trống khi rộn rã, lúc khoan thai của
những lễ hội được truyền lại tự ngàn đời. "Tháng
giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè".
Vâng ! ăn chơi, cờ bạc, hội hè ròng rã suốt ba tháng trời
như thế , chỉ có mà treo niêu. Chắc các cụ ta xưa chỉ mượn
chén rượu xuân mà nói quá lên cho vui, cho quên đi những lam
lũ quanh năm để làm ra củ khoai, hạt thóc. Còn hội lớn,
hội nhỏ, thì nơi này nơi kia tháng nào cũng có, nhưng hội
chính cũng chỉ diễn ra trong một, hay vài ba ngày thôi, mà
cũng không phải đợi đến tháng ba. Ngày xưa làm vụ chiêm,
tết đến, xuân về cấy xong, cỏ lúa xong là các cụ
ta đã vào hội. Như ở tổng Hiền Quan này, từ
trung tuần tháng giêng hội làng đã mở :
''Mười một
Hương Nha
Mười hai
Gia Áo
Mười ba Hội
Hiền''.
Tổng Hiền Quan
xưa, đất không rộng so với các tổng khác, nhưng người
thì đông hơn hẳn. Xưa đã có câu " đinh tổng Hiền, điền
tổng Tứ, lý sự tổng Văn". Hội Hiền, còn có tên là Hội
Phết Hiền Quan tuy không lớn lắm, nhưng vui và lạ nên cũng
thu hút khá đông người các tổng khác. Tại sao lại có tên
là hội Phết ? Tôi hỏi một anh chàng bên tổng Văn (Văn Lang).
Anh này lý sự lòng vòng một hồi, rồi chỉ vào quả
bóng gỗ màu đỏ, phán rằng : "đó là quả phết, nên gọi
là hội Phết". Hội diễn ra ở đình làng, cạnh một
khu ruộng nhỏ bên một khúc sông Thao chảy lơ thơ trong tiết
xuân ấm áp. Hội Hiền năm nào cũng mở vào ngày mười ba
tháng giêng âm lịch. Đó là ngày hội để nhớ về cảnh
luyện quân của Thiều Hoa công chúa - một tướng giỏi
thời Trưng Vương. Sau lễ tế Công chúa tại đình làng, cụ
Từ đọc lời cầu chúc, cẩn thận tung quả phết xuống một
cái hố sâu, rộng chừng ba gang tay, rồi trịnh trọng vái
lạy trời đất và hội Phết bắt đầu. Vào ngày mười ba
tháng giêng ấy, trai làng ở các giáp (thôn) trong tổng Hiền
chỉ mong trời mau sáng để trổ tài, khoe sức. Quả phết
chỉ to hơn quả bưởi đã lột vỏ một tý, bôi sơn đỏ,
làm bằng thứ gỗ vừa dai vừa chắc, không nặng lắm. Các
trai đinh mình trần, khố đỏ được chia thành hai giáp với
số người ngang nhau. Giữa tiếng trống hội dồn dập như
trong đám vật, các chàng trai dùng gậy tre có ngoặc như cù
nèo tranh nhau kéo quả phết lên. Người lấy được,
vừa ôm quả phết trước ngực, vừa phải "tả
xung hữu đột" để chạy thật nhanh về phía xuất phát của
giáp mình. Một cuộc vật lộn, tranh giành thật sự bắt đầu.
Quân hai bên dùng các "chiêu" lừa, các miếng võ tung hứng,
nắm bắt... nhằm đánh bại đối phương để giành giật
bằng được quả phết. Cuộc tỷ thí chỉ được sử dụng
sức mạnh cơ bắp, diễn ra trong khoảng vài giờ. Đúng ! Chỉ
vài giờ thôi, nhưng cũng đủ để mỗi chàng trai
thể hiện tài trí, sức vóc nổi trội của mình trước những
cặp mắt huyền của các thiếu nữ . Quả thật, hội
phết thực sự là một cuộc tranh hùng với những
thế võ cổ truyền đẹp mắt, nhanh mạnh, quyết liệt, dứt
khoát, nhưng không gây thương tích cho đối phương. Khi tiếng
chiêng, tiếng trống dồn dập vang lên cùng tiếng hò reo không
dứt, là lúc đến hồi cao trào. Cả không gian như bừng lên
trong ánh nắng xuân. Hội phết kết thúc, khi một giáp đã
cướp được quả phết mang về nơi xuất phát của giáp mình.
Ở đó, những cành lá tươi nguyên, xanh biếc sức xuân cùng
những lá cờ đuôi nheo, như đang reo vui đón chào họ.
Hội Hiền như đang tái hiện những gì còn sót lại,
về những buổi tập trận ngày xưa của Thiều Hoa Công chúa.
Đó là những buổi luyện quân trước một trận đánh
lớn. Từ núi Mủi làng Hiền, đoàn quân Trưng Nữ vượt qua
sông Hát tiến ra Luy Lâu, rồi quay về Long Biên, với những
lá cờ đại chỉ thẳng về phía trước...
Tan hội, khu ruộng
nhỏ nơi diễn ra hội phết, ngô non bết xuống, trở thành
khoảng không bằng nhẵn như một bãi trống. Đội quân thắng
trận đem quả phết dâng trả cụ Từ và lạy tạ...
Thế là, với giáp (thôn) ấy một năm mới may mắn đã thực
sự bắt đầu, hăm hở làm ăn, tràn đầy hy vọng...
Các già lão và trai đinh cùng kéo về đình làng. Bữa tiệc
khao của làng chỉ có xôi nếp và duy nhất một món gỏi cá.
Thứ gỏi cá đặc biệt, cùng thứ nước chấm cũng đặc
biệt, quyện vào nhau, thơm ngậy hương vị đồng quê. Người
tổng Hiền bảo, thứ nước chấm đơn giản vậy, mà làm
thì không ít công phu. Đó là thứ nước sánh, đặc sệt,
chế biến từ những sản vật của làng, như vừng, lạc,
lá nhội, búp sung, bạc hà và các hương liệu, được đựng
trong cái bát cổ to, sức chứa tới vài lít, có vị béo, thơm
và chát. Người Tổng Hiền xa quê, dù ở đâu cũng không quên
được bữa tiệc này, vừa thật đậm đà chất quê, vừa
mang dấu ấn của văn hóa ẩm thực cộng đồng. Đó
là cái tết riêng của người Hiền Quan.
Nhớ mãi có lần
hỏi một người đồng hương quê đâu ? Anh cười vui "đinh
tổng Hiền". Vâng, "đinh Tổng Hiền" đi thiên hạ thi thố
tài năng cũng sáng danh lắm. Có người làm đến chức quan
lãnh tám triều đình Huế, thời Nguyễn. Có người làm tướng
cầm quân. Có người là Nghệ sỹ Nhân dân. Con dân Tổng Hiền
trở thành tiến sỹ, kỹ sư, bác sỹ, nhà doanh nghiệp...cũng
không ít. Nhưng mỗi lần về quê vào dịp hội làng,
họ vẫn cứ muốn được thanh thản nhẹ bước trên
những con đường đất nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra đình, có
những cây hoa gạo trắng vừa qua đông, đứng bên đường
như đang bâng khuâng, tư lự ... gợi nhớ về thủa xa
xưa. Có người đi xa tận phía trời Tây, tâm sự "sắp đến
nguyên tiêu gần ngày hội Phết, không về được, thì đêm
ấy vợ chồng cũng giành trọn buổi làm món gỏi cá nhớ
quê nhà, coi như cùng được vào lễ nguyên tiêu, dự
hội làng với bà con trong nước. Rượu rót ra, nâng lên mà
canh cánh một nguyên tiêu :
"Kim dạ nguyên
tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang,
xuân thủy tiếp xuân thiên''
Có ai đó nói, hội
phết tổng Hiền chưa phải là hội lớn. Vâng ! lớn hay nhỏ
cũng tùy theo quan niệm của mỗi người. Nhưng dù lớn hay
nhỏ, thì ở đó ta vẫn có được những giây phút thảnh
thơi, trong những khoảng không gian, thời gian, cảnh và người
nơi làng quê, thôn dã đầy đam mê, hy vọng khi tết đến,
xuân về, hòa cùng với biết bao yêu, tin, khát vọng của
mùa xuân đất nước.
1-2005
ĐÀO
VĂN TIỀN
Hình
ảnh trong bài được trích từ
http://vnexpress.net
và
http://www.baomoi.com