Chim Việt Cành Nam          Trở Về   ]            [ Trang chủ ]         Tác giả  ]

 
Giới thiệu Minh bột di ngư

Bùi Thụy Đào Nguyên

Từ lâu, ngay cả người trong giới nghiên cứu văn học, đã cho rằng bài thơ Lư Khê ngư bạc và Lư Khê nhàn điếu là một; thực tế Lư Khê nhàn điếu là tên chung của 32 bài thơ Đường luật; nằm trong tập Minh bột di ngư; và đối với Lư Khê ngư bạc, nội dung của chúng không hề giống nhau.

Minh bột di ngư (hay Minh Bột di ngư thi thảo), có nghĩa: "ông chài còn sót lại ở đất Minh Bột" (1) hoặc: "con cá còn sót lại của biển Bột" (2), là một thi phẩm bằng chữ Hán của Mạc Thiên Tứ, gồm một bài phú hơn trăm câu và 32 bài thơ Đường luật. Tất cả đều mượn thắng cảnh Lư Khê ở Hà tiên (Kiên Giang, Việt Nam) để làm đề tài sáng tác.

Giới thiệu
Trích bài Tân tự của Trịnh Hoài Đức, đề trong tập Minh bột di ngư (bản in 1821):
...Lư Khê chính là một trong mười cảnh Hà Tiên. Về cảnh này có bài phú trăm lời, thi 32 vận, đều là của ngài làm ra, tồi hiệp cả lại cho nhan đề là Minh bột di ngư, gọi là ngụ mối u hoài cảm khái tự chốn thâm tâm, chớ nào phải vì chén rượu câu thi mà xướng họa hão đâu...Từ Hà Tiên gặp cơn binh hỏa (1771), bản phiến sách xưa đều bị ngọn lửa cay nghiệt cháy thiêu, sách lưu hành cũng vì đó mà lần lần thất lạc. Đến lúc ra giúp nước, tôi cố tìm sách ấy mà không được gặp. Thường trằn trọc thâu đêm, trí mãi vẩn vơ lo nghĩ về việc sưu tầm sách mất...
...Năm Canh Thìn (1820) mùa hạ, vâng mạng về kinh (Huế), thọ lãnh nộ vụ, tôi may gặp được tập Lư Khê nhàn điếu (tức Minh Bột di ngư) của ngài (Mạc Thiên Tứ), rất khoan khoái đọc suốt cả đầu đuôi...Nguyên bản có đoạn khuyết mất, không thể so sánh đâu được, tôi bèn lập ý bổ khuyết vào, rồi giao cho nhà in khắc bản khác (Tân Tỵ, (1821)) (3)

Năm 1820, Trịnh Hoài Đức dâng sách Minh bột di ngư lên vua Minh Mạng.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, chép:

Vua Thánh Tổ (Minh Mạng) mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo...

 Theo Đông Hồ, sở dĩ ông Trần Trọng Kim ghi là Minh Bột Di Hoán Văn Thảo là vì trong chữ Hán, chữ ngư và chữ hoán khá giống nhau. Sau, khi soạn sách Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên, cũng căn cứ theo Việt Nam sử lược mà chép là Minh Bột Di Hoán Văn Thảo (quyển ba, Nxb Nam Ký thư quán, Hà Nội, 1934, tr. 6). Năm 1949, khi Nxb Tân Việt ở Sài Gòn cho tái bản lần thứ ba sách Việt Nam sử lược, thì thợ sắp chữ sắp lầm chữ di thành chữ khiển (theo nghĩa điều khiển, sai khiến), nên tập thơ có thêm một tên nữa là Minh bột khiến hoán. (trang 436, dòng thứ năm). Cũng theo Đông Hồ, đoạn sử trên rất dễ làm người đọc hiểu lầm là sách Minh bột di ngư do Trịnh Hoài Đức sáng tác.

Ở Sài Gòn, lần đầu tiên Minh bột di ngư được Ngạc Xuyên (Ca Văn Thỉnh) giới thiệu trong Đại Việt tạp chí số 12, ra ngày 1 tháng 4 năm 1943. Bản Minh bột di ngư năm 1821 mà Ngạc Xuyên Ca dùng để viết bài, vốn thuộc thư viện riêng của nhà sử học Lê Thọ Xuân, nhưng không may là thư viện này, trong đó có tập sách trên, đã bị lửa chiến tranh thiêu hủy sau ngày Nam Bộ kháng chiến năm 1945.

Hiện nay (tháng 6 năm 2009), giới nghiên cứu văn học Việt vẫn chưa tìm được một quyển nào khác.

Thơ chữ Hán
Sách Minh bột di ngư với khoảng 30 bài thơ chữ Hán, nay chỉ còn lại 7 bài.
Hai bài Lư Khê nhàn điếu sau đây đã được chép lên vách Mạc Công Miếu, Hà Tiên.

Phiên âm Hán - Việt

1.
Lư Khê phiếm phiếm tịch dương đông
Băng tuyến nhàn phao bạch luyện trung.
Lân liệp tầm lai niêm ngọc nhỉ,
Yên ba trường tự khống thu phong.
Sương hoành bích địch hồng sơ tễ
Thủy tẩm kim câu nguyệt tại không.
Hải thượng tà đầu thời độc tiếu.
Di dân thiên ngoại hữu ngư ông.

Đông Hồ dịch thơ:

Sông Lư bảng lảng ánh dương hồng,
Ném sợi băng trên tấm lụa trong.
Mồi ngọc đã làm ngon miệng cá,
Gió thu đâu để nổi cơn giông.
Cầu vòng cần trúc hơi sương đượm,
Trăng uốn vành câu bóng nước lồng.
Lắm lúc ngửa nghiêng cười với biển,
Bên trời riêng một cõi ngư ông.

Phiên âm Hán - Việt

2.
Khê thượng lưu hoành dạ sắc dung
Niêm câu nhàn điếu ngũ canh chung
Tứ biên lộ khí phù trầm ngoại
Nhất lũ ba quang kỷ vạn trùng
Điềm khiết mỗi liên âu vụ hiệp
Hành tàng ưng phó thủy vân cung
Mãn chu phong nguyệt kham ngu xứ
Lảo đảo thương minh nhập tửu chung.

(Xem bản chữ Hán hai bài thơ trên trong sách Văn học Hà Tiên, tr. 55, 57 và 74. Bài thứ 2, Đông Hồ chưa dịch nghĩa và dịch thơ).

Tháng 11 năm 1986, trong buổi lễ 250 năm Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986) do tỉnh Kiên Giang tổ chức; trong một thuyết trình, nữ sĩ Mộng Tuyết công bố thêm một bài Lư Khê nhàn điếu như sau:

Thủy quốc vân hương cảnh bất phàm
Diên Khê sơn sắc bích sàm nham
Đạm yên ổn trạo hoành cô đỉnh
Tế vũ khinh thoa chướng đoản sam
Thôn nhĩ nan đầu đa khẩn tuyến
Đình can thiên tế kiến chinh phàm
Tư luân hải ngoại trương thơ quyện
Cổ tiếp thung dung kiểm điếu hàm.

Nữ sĩ Mộng Tuyết dịch thơ:

Vùng nước làn mây cảnh sáng trong
Dọc khe núi dựng sắc xanh chồng
Khói mờ xuôi mái quay thuyền dạo
Mưa nhẹ tơi thưa áo ngắn lồng
Cá đớp mồi câu dây nhợ thẳng
Cần buông mắt dõi cánh buồm căng
Tơ giăng cuốn thả ngoài khơi rộng
Kiểm lại hòm câu gõ nhịp vang.

Năm 1985, Cao Tự Thanh đọc được trong một hợp tập thơ văn chữ Hán chép tay tại Thư viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh thêm bốn bài nữa. Bốn bài này có nhan đề "Lư Khê nhàn điếu (tứ thủ)" chép lẫn giữa một số thơ văn khác về Hà Tiên, cuối hợp tập có dòng chữ "Nam triều Bảo Đại Giáp Tuất niên tam nguyệt sơ nhất nhật, An Trường Hải Nhi thư vu Hà Tiên chi lữ thứ" (ngày 1 tháng 3 năm Giáp Tuất niên hiệu Bảo Đại Nam triều - 14.4.1934, An Trường Hải Nhi (?) chép ở đất khách Hà Tiên).

Sau đây là nguyên văn và thứ tự bốn bài thơ nói trên:

 I.
Lãng bình nhân ổn tự du tai,
Nhàn đãng khinh chu điếu kiển hồi.
Hôn trực thâm trầm câu nhĩ trọng,
Lân la loạn chiếm thủy văn khai.
Trú tầm vân ảnh tùy lưu bạc,
Dạ trục hàn quang đới nguyệt hồi.
Tiếu ngạo yên ba thời xuất một,
Tương kỳ khê tịch hải triều lai.

Tạm dịch:

Sóng yên người ổn thật vui thay,
Thong thả thuyền câu ngược rạch bơi.
Mồi nặng dòng sâu dây nhợ thẳng,
Nước xao gió gợn vảy hoa bày.
Sáng tìm mây loáng theo khe chảy,
Đêm đuổi sương bay đội nguyệt về.
Cười cợt ra vào nơi khói sóng,
Vừa cơn ròng tối đã triều mai.

II.
Sấn tễ phù thanh triển điếu luân,
Trường lưu nhân tại bích khê xuân.
Kim sàm trục ảnh phao hương nhĩ,
Ngọc chức lâm ba duệ cẩm lân.
Vạn khoảnh bất kinh phong lãng khởi,
Tứ thời trường dữ thủy vân lân.
Nhàn thừa kha hạm ngâm phong nguyệt,
Độc điếu uông dương lão thử thân.

Tạm dịch:

Mưa tạnh trời trong khẽ nhắp cần,
Theo dòng câu cá tới khe xuân.
Lưỡi vàng đuổi bóng theo mồi nhẹ,
Tơ ngọc vào sông đẩy sóng dần.
Muôn khoảnh ba đào lòng há sợ,
Bốn mùa mây nước nghĩa càng thân.
Dong thyền rảnh rỗi ngâm trăng gió,
Trên biển già nua ngạo tấm thân.

III.
Kỷ loan phong nguyệt nhất khê vân,
Triêu tịch tương ư duật lộ quần.
Hiểu trướng lạm lai ngư phún tuyết,
Minh yên hàn để thủy phiên văn.
Tung hoành tối ái phù chu ổn,
Thư quyện thiên năng đắc cối tần.
Nhược vấn điền viên hà xứ thị,
Bích thiên vô tế thủy vô ngân.

Tạm dịch:

Khe tràn mây khói vịnh đầy trăng,
Sớm tối cò le thoả hợp quần.
Triều sáng cá phun dòng sủi tuyết,
Khói mờ nước động sóng khoe văn.
Dọc ngang mặc sức thuyền con vững,
Câu kéo nhiều phen gỏi cá ăn.
Vườn ruộng nơi nào đừng nhọc hỏi,
Trời xanh không chắn biển không ngăn.

IV.
Nhạn hạc lô từ hiệp hữu bằng,
Lư hà liêu chử hảo y bằng.
Vi mang hiểu sắc tầm ngư ảnh,
Tễ bích tình không lý điếu thằng.
Khứ trú tự do dao đoản tiếp,
Đô tây tương chiến hữu hàn đăng.
Bàng lưu độc vấn tâm trung sự,
Dục phỏng Bàn Khê khước vị năng.

Tạm dịch:

Cồng cộc, le cò giỡn líu lăng,
Sông lau bến lách thảy xung xăng.
Sắc mai hơi ngút tìm tăm cá,
Trời tạnh mây quang chúc ngọn cần.
Đi ở thong dong chèo nhỏ khuấy,
Đông tây lố nhố lửa khuya giăng.
Bên dòng thầm hỏi lòng ngư phủ,
Học đợi công hầu nghĩ khó khăn.

***
Phú Lư Khê nhàn điếu

Bài phú Lư Khê nhàn điếu, tên đầy đủ là Lư Khê nhàn điếu tam thập nhị phú là bài phú dài hơn trăm câu do Mạc Thiên Tứ sáng tác, được xếp chung trong tập thơ Minh Bột di ngư.
Bài phú này còn tồn tại là nhờ nó được  Phạm Nguyễn Du (3) ghi lại trong Nam hành ký đắc tờ 27a-29a, mang ký hiệu A. 2939 hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tài liệu này chỉ có ở miền Bắc nên trong Văn học Hà Tiên (bản in năm 1970),  thi sĩ Đông Hồ chỉ giới thiệu được một đoạn của bài phú Lư Khê nhàn điếu còn sót trên tường Mạc Công Miếu ở Hà Tiên.
Năm 1980, Cao Tự Thanh thông báo tài liệu này với nữ sĩ Mộng Tuyết để bà liên hệ với Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) nhờ sao lại.
Năm 1986, Mộng Tuyết đã trao bản ấy cho học giả Giản Chi phiên dịch và công bố trong tập Kỷ yếu 250 năm thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các (1736-1986), do Sở Văn hoá và Thông tin Kiên Giang xuất bản năm 1987; và sau nữa cho in lại trong Văn học Hà Tiên (Đông Hồ biên soạn, bản in lại năm 1999), nhưng có vài chỗ chưa thật đúng về văn bản.

Phiên âm Hán - Việt:

Hải khoát, thiên không,
Vân cao, thủy dung.
Thời hoa nhược cựu.
Thế sự vô cùng.
Tuần du ư thương ba chi thượng,
Tùng phiếm ư Nam phố chi đông.
Duy độn thương chi đắc lộ.
Cố vật ngã chi hữu cùng,
Nguyên thác tôn ư mang điểu,
Thú vô tình ư cùng thông.
Trữ tri di thứ,
Lão tác ngư ông.
Ư thị:
Kiết điếu cụ,
Phất xoa lạp.
Thiên khinh châu,
Sự cao bồng,
Ngư khinh, trà táo.
Tửu úng, thi đồng
Dụng bị, ứng sự
Ốn trục khinh chình phong,
Sấn trào ba chi thành vụ,
Nhậm thần hôn dĩ cần công.
Đỗ quyên lưu nhi phiếm lạm,
Đích quyên hử chi sung dung.
Nhất can trường dự,
Nhàn điếu thử trung.
Nhĩ nãi: niêm hương nhị hề phao khinh kiển.
Trầm tân nguyệt hề hoành đế đổng.
Nhất lũ tài thùy,
Vạn ba tùy động.
Ngọc thốc vựng viên,
Tiêu trữu phong lộng.
Ỷ tiếp hề trầm ngâm,
Tùy cơ hề vãn khống.
Ngô phi thực nhi đa cầu,
Vật nhân tham nhi tự tống.
Tá thứ tiêu bỉ.
Di di không không.
Chí ư: khê khẩu trào bình,
Hải đầu quang lạc,
Yên ba đáo xứ,
Tận kỹ thanh sảng,
Tất đắc giải thưởng.
Thụ thảo ông âm ư khê bạn hề, trừ phố hà lô;
Phong vân liêu điểu ư hài tây hề, thủy thiên hạo hoảng
Sa điểu kinh thời nhi cao tường,
Phù diệp tùy lưu nhí đãng dạng,
Văn mục địch chi trường suy,
Lai ngự ca nhi đệ hưởng.
Ki trừ can dĩ phóng hoài.
Phục tư nhân hồ tưởng tượng.
Nhiên nhi:
Phiến phàm yên thủy
Lưỡng tương thương lang
Bất tri vinh phú.
Nhậm lạc khang trang
Nghi phù du ư thiên ngoại hề, hàng xuất một hồ uông dương:
Kí phiêu linh ư ngư bạc hề, kì thê tức Hồ Hoài Giang.
Dĩ đa tình ư Trương Tử hề, tương hữu ỷ ư Nghiêm Quang.
Mộ Quý Trát chi thượng thanh vi hề, miến Chi Di chi sự minh mang.
Dẫn Nhậm công chi điếu hề, nghi hồ thư quyển.
Phù Trọng Do chi phu hề, nguyên hĩ tung hoành.
Hệ thử sinh ư Nam hải,
Lạc tạo vật hồ tiền trình,
Hữu thời ngộ ư phong cao, lãng chấn hề, đa sử nhân ư hãi hãi, hồn kinh
Hữu thời hám hồ cốc văn liên y hề, đa sử nhân hồ tâm khoáng thần thanh
Hữu thời đổ ngư được diên phi hề, đa sử nhân ư đạo niệm, hưu minh.
Hữu thời cảm ư bạch vân lưu thủy hề, đa sử nhân ư vật ngã vong tình.
Tự thị:
Muội đán vãng lai,
Thê trì trách hạm,
Hoặc tùy tướng nhi bạc lô âm...
Hoặc hoành cà nhi ca dạ tĩnh:
Hoặc bát tương ư khốn ngư,
Hoặc bài luân ư dẫn ngạnh.
Giác thiên địa hề vô di,
Cực phong sương hề tự mãnh.
Bạc phù sinh ư âu vân,
Thị vạn vật như hào dĩnh,
Sưởng hoàng hoa hề dã vong,
Bi phiêu linh hề độc cảnh.
Nhi hựu:
Tư mỹ nhân hề, diểu hà chi,
Hoài cố quốc hề đồ dẫn lĩnh!
Tri cán thực hề canh tường,
Cố tiêu y hề khâm ảnh.
Quý trưởng đại chi vô tài,
Không cảm phẩu ư quang cảnh
Kí can trúc chi sinh nhai
Am thử sinh ư hữu hanh.
Đối văn thủy dĩ chung niên,
Lạc yên ba ư vạn khoảnh.
Kì bất phụ hồ ngư lạc bán sinh trung,
Sướng dư hoài nhi thi ca tam thập vịnh.

Học giả Giản Chi dịch:

Buông câu trên Lư Khê
Bể rộng, trời không,
Mây cao nước trong
Ngày tháng như cũ,
Việc đời khôn cùng.
Chơi vơi làn trong, sóng biếc
Mênh mang bến Nam duềnh Đông...
Hành, tàng miễn đúng đường đạo nghĩa
Vật ngã vốn có chỗ chung cùng,
Nguyện gửi dấu chân nơi mang diểu,
Hầu vơi tâm sự, vận cùng thông
Phận làm di thứ,
Vai đóng ngư ông,
Ấy vậy, sửa soạn,
Đồ nghề buông câu:
Lò trà, tơi nón.
Thơ túi, rượu bầu;
Thuyền con một lá.
Thẳng miền lác, lau.
Nương luồng gió thuận
Dong buồm trôi mau...
Lựa con sóng ngọn trào đỡ sức
Sớm rồi chiều chăm sóc như nhau
Ngó duềnh lênh láng
Nhằm vũng trong sâu
Chiếc cần dài sẵn
Buông đó chớ đâu?
Vầng trăng mời chìm chừ, giăng ngang tựa bóng cầu vồng.
Sợi dây một thả
Gợn sóng trùng trùng
Nhỏ to, ngọc tròn từng vốc nổi
Lăn tăn lực mịn bao nếp rung...
Tựa mái chèo chừ, thả, buông, giật, tung
Ta đâu phải vì ăn mà cầu nhiều, ước lắm
Vật chính bởi ham mồi mà mắc lưỡi vô tròng
"Mượn đây, tiêu đó"
Thoải mái, ung dung
Đến như gặp khi
Cửa khe trào lắng
Biển rút quang đãng
Khói sóng đó đây
Rất mực trong sáng
Giai cảnh, lương thì
Tận tình ngoạn thưởng
Cỏ cây xum xuê bên bờ khe chừ lau lác um tùm.
Mây gió phất phơ vùng biển Tây chừ nước trời lấp loáng
Con le kinh ngạc từng lúc tung bay
Chiếc lá bồng bềnh theo làn lên xuống
Nghe hơi sáo mục đồng  véo von
Lắng giọng ca ngư ông rổn rảng
Đã hướng cần mong phóng hoài
Lại nhớ ngoài mà tưởng tượng
Thế nhưng:
Buồm một lá bầu trời yên thủy
Chèo đôi cay non nước Thương Lang
Chẳng màng phú quý
Miễn thú khang trang
Nên bồng bềnh nơi chân trời chừ mà vào ra giữa khoảng mênh mang
Muôn lênh đênh trên vũng câu chừ mà thê trì trên sóng nước Hoài Giang
Đã giàu tính hơn Trương Tử  chừ lại có ý với Nghiêm Quang
Mộ Quý Trát chuộng, thanh cao chừ, mến Chi Di tìm cảnh mênh mang
Buông câu Nhậm công chừ hưởng thú thư quyển
Cưỡi bè Trọng Do chừ tin đúng nghĩa hành tàng
Gắn cuộc sống liền vào Nam hải
Nhắm tiền đồ vui đức hóa sinh
Có lúc gặp gió to sóng cả chừ mà vía ác hồn kinh
Có lúc ngó làn sóng lăn tăn chừ mà đạo niệm ngời xanh
Có lúc cảm thông  với mây trắng trôi, nước xanh chảy chừ mà bao người quên vật, quên mình.
Từ đó:
Mờ sáng tới lui, nương náu giữa tàu to, thuyền nhỏ
Hoặc theo con nước lên mà, dưới bóng lác lau, đôi chèo yên đỗ,
Hoặc đưa ngang cây kèn mà khúc ca đêm thanh nhịp gõ
Hoặc bẻ lái giúp ông chài gặp bước khó khăn.
Hoặc cuốn dây câu mà lưỡi câu nhẹ gỡ,
Vỡ lẽ trời đất chừ không sót, không quên
Bền gan tiến thủ chừ khinh sương khinh gió.
Coi kiếp sóng bềnh bồng như giọt nước bóng mây kia,
Xem muôn vật nhỏ nhoi như lông thu hạt thóc đó,
Xót trôi giạt chừ cảnh giác phận mình,
Thương thắm tươi chừ điêu linh nội cỏ.
Mà lại:
Tưởng Người Đẹp chừ đang vò võ phương nào,
Nhớ nước cũ chừ chỉ đăm đăm ngoái cổ:
Đoái áo mặc đêm chừ, kìa bóng chăn
Muốn bữa ăn muộn mà cúng giỗ.
Thẹn vì tuổi lớn mà tài năng kgo6ng
Giận chỉ buồn suông, trước ngày bóng đổ.
Yên phần số cùng cuộc sống ưa may
Qua ngày tháng với cần tre miệng giỏ.
 Nước non man mác, thảnh thơi hôm sớm tuổi trời
Khói sóng trùng trùng, vui ngắm bức tranh mây chó
Mong không phụ nửa đời hưởnmg thú buông câu
Thích có hứng gieo ba chục vần ghi nhớ!

Giải thích từ khó:
Thương Lang: tức sông Hán Thủy, Trung Quốc.
Hoài Giang: tức sông Hoài, Trung Quốc.
Trương Tử Phòng: tức Trương Lương. Ông này giúp Lưu Bang dựng thành đế nghiệp, rồi lui về ở ẩn, học đạo với Xích Tùng Tử.
Nghiêm Quang: tức Nghiêm Tử Lăng. Gặp lúc  Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ông đi ẩn cư trên sông Phú Xuân (huyện Đồng Lư, Chiết Giang) lấy câu cá làm vui.
Quý Trát: được vua cha lập làm thái tử, ông không nhận.
Chi Di: tức Phạm Lãi, là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô.
Nhậm công: không rõ, chỉ biết trong sách Trang Tử có câu: Nhậm công tử kỷ  niên bất đắc ngư (Nhậm công tử buông câu ở bể Đông, cả năm không được cá).
Trọng Do tức Tử Lộ: Ông  là một trong những học trò giỏi cua Khổng Tử. Khi còn hàn vi, nhà rất nghèo túng. Tử Lộ quanh năm vất vả, một niềm phụng dưỡng cha mẹ rất chu đáo.

*
Theo Ngạc Xuyên, người cuối cùng đọc được đầy đủ Minh Bột di ngư (bản in năm 1821), thì đây là một tập thi họa rất quý, chẳng những quý về phương diện sử liệu, văn học; còn quý về mỹ thuật, về bút tích của tiền nhân. Ông viết:
Sách này in lối nhất thi nhất họa, mỗi bài thơ có kèm một bức vẽ, do các tay danh họa, các tay đại bút bấy giờ đua nhau trình bày...
Nghe tin bản sách trên bị cháy rụi, thi sĩ Đông Hồ có ý nuối tiếc:
Sách này, người tàn trữ nó là nhà sử học Lê Thọ Xuân không còn giữ được. Mà muốn tìm được quyển thứ hai thì biết tìm ở đâu. Sách này mà còn thì vô giá bảo. Ước rằng vật quý văn hóa chẳng lẽ trầm mai, độc giả tri kỷ bốn phương xin đặc biệt lưu ý giúp cho, may mà có ngày tao ngộ.

Và Cao Tự Thanh cũng đã than rằng:
Đây là một điều đáng tiếc đã gây nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu thơ văn Chiêu Anh Các nói chung và thơ văn Mạc Thiên Tích nói riêng trong nhiều năm qua. Bởi vì nếu những Hà Tiên tập vịnh, Thụ đức hiên tứ cảnh... là tiếng nói chung của cộng đồng Việt Nam ở trấn Hà Tiên thế kỷ 18, thì Minh bột di ngư lại là tiếng lòng riêng tư của bộ phận người Hoa phản Thanh phục Minh ở Hà Tiên và cả Đàng Trong buổi ấy, những người yêu nước phải đào vong tị nạn và trong quá trình đấu tranh để hoà nhập vào một không gian sống mới cũng chủ động và vĩnh viễn vùi chôn tâm sự di thần..

Khía cạnh ấy sẽ ít nhiều được Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) sau này khái quát qua bài Đề bột di ngư tập hậu (Đề sau tập Minh bột di ngư) với niềm hoài cổ của một ông quan thời vong quốc :

Cựu quốc hoang lương sự dĩ thù,
Ky nhân hải ngoại độc thừa phù.
Tự phi kinh cức quy chân chủ,
Cánh hướng yên ba học điếu đồ.
Thiên lý vãn triều quy túc lộ,
Bán khê xuân lục trưởng tân bồ.
Anh phong quan dữ tư nhiên tận,
Liêu quách giang thiên phiến nguyệt cô.

(Nước cũ tan tành việc đã lâu,
Bè côi vượt bể ngạo ba đào.
Mở đường gai góc theo vua thánh,
Hướng nẻo sông hồ học bạn câu.
Ngàn dặm sóng triều cò nghỉ cánh,
Nửa khe xuân biếc cỏ khoe màu.
Phong tư người trước nay đâu vắng,
Quạnh quẽ trời sông mảnh nguyệt đau.
(Kim Giang thi tập)

Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích:

(1)Theo cách dịch của Nguyễn Huệ Chi, Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr. 935.

(2)Theo cách dịch của Ngạc Xuyên (Ca Văn Thỉnh), Hào khí Đồng Nai, Nxb TP. HCM, 1983, tr. 64. Theo cách dịch của ông Chi và ông Thỉnh, lẽ ra phải viết hoa chữ bột, nhưng không hiểu sao trong nhiều sách đều viết như trên.

(3) Trịnh Hoài Đức nói đề tài Lư Khê có 32 vận, nhưng căn cứ câu chua chép kèm theo một đoạn phú trong Minh bột di ngư được viết lên vách phải nơi chánh điện Mạc Công Miếu, thì chỉ có 30 bài (tam thập vận).

(4) Phạm Nguyễn Du (1739 - 1786),  tên thật: Phạm Vĩ Khiêm; hiệu: Thạch Động; người huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1779, tác giả Nam hành kí đắc tập.

Tham khảo:

-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968.

-Cao Tự Thanh, Thêm bốn bài thơ Lư Khê nhàn điếu của Mạc Thiên Tích [http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/9603v.htm]

-Đông Hồ, Văn học Hà Tiên, Nxb Văn nghệ TP> HCM, 1999.

-Mộng Tuyết, Núi mộng gương hồ tập 3 (hồi ký) , Nxb Trẻ, 1998.



Trở Về  ]