Chim
Việt Cành Nam
[ Trở Về
] [ Trang
chủ ]
|
|
Tranh
minh họa dân gian của Henry Oger và Võ đình
|
Chơi Chong chóng, tranh Võ đình, UNICEF 63 |
Đồng
dao, đồng diêu :
câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn
giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong đại Nam Quấc
Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất
bản năm 1895 tại Sàigòn.
36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến đức khởi thảo Việt Nam Tự điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào. Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả. Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện. Chơi Diều, tranh Võ đình, UNICEF 69 |
Những
trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ
ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt
đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ
tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho
con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động
từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu,
miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng,
tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp ...
Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc: Cất
rớ lên! Bỏ rớ xuống!
Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao: Nhong
nhong nhong nhong
Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi: Một
ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có phần nhạc ở phụ lục. Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại: Kéo
cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa
hay:
Cút
ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy
Vẫn tay mẹ tay con: Xỉa
cá mè/ đè cá chép
Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân: Xỉa
cá mè/ đè cá chép
Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận: Vuốt
hột nổ
Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là: Tập
tầm vông
Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên: Cùm
nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên
Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung: Nu
na nu nống/ cái cống nằm trong
Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần. Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ: Con
vỏi con voi/ cái vòi đi trước
Ba bài liên hoàn khác về chim: Ác-
là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu
Một bài đồng dao liên hoàn khác được đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm: Con
chim chích chòe/ nó kêu chích chòe
Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau: Con
chim manh manh/ nó đậu cây chanh
Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát: Bắc
kim thang, cà lang bí rợ
Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam. Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ: Chu
tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa
Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba: Thả
đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà
Bài Thả đỉa ba ba khác: Thả
đỉa ba ba
Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm: Mít
mật mít gai/ mười hai thứ mít
Chơi bịt mắt bắt dê, tranh Võ đình Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc: Ông
trẳng ông trăng
Hoặc: Ông
tiễn ông tiên
|
Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX, chú thích bằng chữ Nôm: đánh Cờ Chân Chó Làm Hùm Bắt Lợn, tranh dân gian Henry Oger |
Khi
trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có
rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung
quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng
ổi, bắn súng bẹ sống lá chuối, bắn súng ống hóp đạn
hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn
bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng
lá dừa, cái tó he hay con gà đất có gắn ống cói ống sậy
thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai,
đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân
chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh
đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như
Cờ Lau Tập Trận của đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh
thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu
buộc lông, đá cầu lông, đạp mạng, đạp lon, đi chợ về
chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng,
lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn
làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc
tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò
với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng
dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn,
thả diều làm bằng tre dán giấy ... vô số kể.
Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ đình |
Những
trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế
tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích
nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với
đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà
học thật.
Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Xây
khăn, khăn nổi khăn chìm
Trò chơi Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc: -
Chuồn
chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn
Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại: Dung
giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi
Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc: Ông
Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang
Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Thằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng: Thằng
Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!! Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này. Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn ... tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi: Cái
mốt (bắt một đũa)
Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc: Chuyền
chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba
Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao: Qua
cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc
Chơi thẻ chuyền, Võđình vẽ Laihồng tuổi mười ba |
Nẻ
/ khẻ chân xong là thắng, đoạn đồng dao cuối này
lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những
mệ
có cháu nội ngoại đề huề:
Ai
muốn cao, ngồi ghế / ai muốn thấp, ngồi đòn
Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác: Đầu
quạ quá giang/ sang sông về đò
Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một: Lếu
lêu làng lôộc
Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập: Phụ
đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên
Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc: đi
chợ/ về chợ
(chưa đưa chân)
|
Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ đình, XI-07 |
Trong
trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ
thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi
lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia
là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay.
Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc : -
Này, rồng kia!
Tranh dân gian của Henry Oger Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn |
Bài
đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt
mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát:
Rồng
rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây
Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa đàng Ngoài đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống ... với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. TròRồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc: Rồng
rắn lên mây có cây xúc xắc
Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi: Thầy
thuốc: - Rồng rắn đi đâu?
đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam. Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys 'R' Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones ... và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm. Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát
mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.
|
Tài liệu tham khảo: |
-
Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến đức, Việt nam Tự điển,
Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội 1931
- Henry Oger, La Technique du Peuple Annamite, NXB Jouve & Cie, Paris 1908 - Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Imprimerie Rey, Curiol &Cie, Saigon 1895 - Hướng đạo Ca, Kỷ niệm70 năm Hướng đạo Việt Nam 1930-2000 - Jack Maguire, Hopscotch, Hangman, Hot Potato & Ha,Ha, Ha, Rockefeller Center, 1990 - Lê thị Huệ, Rồng Rắn, Lũy Tre Xanh xuất bản, San José 1989 - Lư Nhất Vũ / Lê Giang, Tìm Hiểu Dân ca Nam bộ, NXB TPHCM, 1983 - Mệ Bê, tài liệu sống, San Diego, CA - Mệ Nguyễn đề, tài liệu sống, West Palm Beach, FL - Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội 1999 - Nguyễn Mạnh Hùng, Ký họa Việt nam, NXB trẻ, Saigon 1989 - Nguyễn Như Ý, Đại Tự diển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Dân Tộc, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn Hóa CHXHCN, Hà Nội 1998 - Nguyễn Tấn Long/Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới, Saigon 1970 - Nguyễn Thuyết Phong and Patricia Shehan, From Rice Paddies and Temple Yards: Traditional Music of VietNam, World Music Press 1989 - Nguyễn Trúc Phượng, Văn học Bình dân, Nhà Sách Khai Trí, Saigon 1964 - Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de Rhodes, Hà Nội 1943 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Thi Ca Bình Dân Việt Nam, NXB Sống Mới, Saigon 1978 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, NXB Vĩnh Hưng Long, Hà Nội 1928 - Trần Quang đức, 175 Trò Chơi Tập thể, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2006 - Trương Anh Thụy, Trường ca Lời Mẹ Ru, NXB Cành Nam 1989 - Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn Hóa Hàn Thuyên, Saigon 1940, Xuân Thu tái bản Houston, TX - Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử địa, Hà Nội 1956 - William Wells Newell, Games and Songs of American Children, Dover Publications, Inc. New York 1903 |
|